Tìm hiểu hệ thống thứ bậc trong hậu cung nhà Thanh của Trung Hoa
HẬU CUNG CỦA ĐƯƠNG KIM HOÀNG ĐẾ
Hoàng đế Đại Thanh cũng như mọi người đàn ông trong xã hội Mãn Thanh, đều theo thể chế thê thiếp. Các vị trí chính thê hay thứ thiếp trong hậu cung nhà Thanh, về căn bản được chia làm các cấp bậc chính:
– Hoàng hậu: chính thất của Hoàng đế.
– Phi tần: thê thiếp của Hoàng đế.
Tất cả bọn họ là các Chủ tử trong hậu cung, được các thái giám và cung nữ hầu hạ. Một khi nhập cung và nhận sắc phong của Hoàng đế, họ sẽ sống cả đời trong hậu cung. Theo quy định thời gian đầu của nhà Thanh, ngoài Càn Thanh cung dành cho Hoàng đế, Khôn Ninh cung dành cho Hoàng hậu, thì các nhóm phi tần đều ở 12 cung hai bên sườn của Càn Thanh cung, gồm Đông lục cung và Tây lục cung, gọi gộp lại là: Đông Tây lục cung.
Cấp bậc của dàn phi tần trong hậu cung Nhà Thanh được phân từ cao đến thấp như sau:
1. Hoàng hậu
Hoàng hậu là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, do Hoàng đế sắc phong. Danh hiệu này tồn tại trong thế giới đồng văn Đông Á, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.
Hoàng hậu là chính thê của Hoàng đế, vì vậy luôn luôn chỉ có một Hoàng hậu tại vị. Trong lịch sử, Hoàng hậu nhà Thanh được lập trong các trường hợp sau:
– Khi Hoàng đế đến tuổi lập Chính thất, tuyển con gái môn đăng hộ đối theo lễ đại hôn.
– Khi một Hoàng tử lên ngôi Hoàng đế, Đích Phúc tấn sẽ được lập làm Hoàng hậu.
– Khi một Hoàng hậu qua đời (hoặc bị phế), Phi tần khác có khả năng sẽ được Hoàng đế lập làm Hoàng hậu kế vị.
Vị đầu tiên thường là Phát thê (thê tử kết tóc) của Hoàng đế, khi ấy được gọi là Nguyên phối, có địa vị tôn quý trong hoàng thất. Còn người được lập tiếp theo sau khi nguyên phối qua đời được gọi là Kế thê. Từ thời Ung Chính, chỉ có Nguyên phối Hoàng hậu được bày chân dung, cùng với Hoàng đế thờ phụng trong Thọ Hoàng điện.
Hoàng hậu là danh vị cao, theo quy định của triều Thanh thì một phi tần cũng được truy phong thụy hiệu Hoàng hậu nếu là sinh mẫu của Tân Hoàng đế mặc dù trước đó họ chưa từng là Hoàng hậu. Trường hợp này xuất hiện rất nhiều vào thời nhà Thanh, điển hình là Hiếu Trang Văn Hoàng hậu, Sùng Khánh Hoàng thái hậu hay cả Từ Hi Hoàng thái hậu (thụy hiệu của bà là Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu). Cũng có một trường hợp độc nhất vô nhị, khi không phải Hoàng hậu của Tiên Đế cũng không phải sinh mẫu của Tân đế mà vẫn được truy phong làm Hoàng hậu, ấy là Đổng Ngạc phi của Thanh Thế Tổ.
Trong hậu cung thì Hoàng hậu là Chủ nội trị, là người chủ trì tất cả mọi việc, quản lý tất cả các phi tần, thái giám và cung nữ. Theo quan niệm đa thê, Hoàng hậu là chính thê, cho nên được coi là “Hoàng đích mẫu” hay “Hoàng hậu ngạch niết” của tất cả các Hoàng tử và Hoàng nữ trong hậu cung, bất luận đó là con của phi tần nào đi nữa. Đầu nhà Thanh, Hoàng hậu sống ở Khôn Ninh cung, từ thời Ung Chính thì dọn sang một trong mười hai cung ở hậu cung.
Có thể nói Hoàng hậu là chức vị mà hàng triệu phi tử đều ao ước và muốn có được. Giống như Hoàng đế, Hoàng hậu có thể xử phạt mọi sai phạm của các phi tử mà không cần phải thông qua sự đồng ý của vua. Không chỉ có vậy, Hoàng hậu cũng có thể quyết định sự sinh tồn, chỗ đứng cho các phi tử trong hậu cung.
Mỗi ngày Hoàng hậu đều sẽ được dàn phi tần trong cung đến thỉnh an. Trong hậu cung, cho dù Hoàng hậu không được Hoàng đế sủng ái nhưng tất cả những đồ dùng, ăn mặc hay trang phục của Hoàng hậu đều phải là những thứ quý nhất, đắt nhất và tốt nhất.
Và đương nhiên, vị trí Hoàng hậu cũng không phải tùy tiện mà có thể ngồi vào được. Người ngồi vào vị trí này không những cần phải dịu dàng, hiền đức mà trí tuệ, hiểu biết phải sâu rộng hơn người bình thường. Ngoài ra gia thế cũng nhất định là gia đình quý tộc, có quyền lực trong triều đình.
2. Hoàng quý phi
Từ thời nhà Minh và nhà Thanh, Hoàng quý phi là tước vị chỉ xếp sau Hoàng hậu và là vị trí đứng đầu các phi tần trong hậu cung, đây cũng là tước vị chỉ có một và rất cao quý đối với ai nhận được trong hậu cung nhà Thanh.
Hoàng quý phi thường được coi như là Phó hậu. Khi Hoàng đế chưa thể sắc phong một phi tần làm Hoàng hậu thì thường sắc phong làm Hoàng quý phi và ban quyền quản lý hậu cung.
Hoàng quý phi thường hỗ trợ Hoàng hậu xử lý chuyện hậu cung, đối với nhiều việc trong hậu cung phi tử cũng có thể tiến hành xử phạt theo ý muốn, tuy nhiên sau đó cũng phải bẩm báo lại cho Hoàng hậu biết.
Tước vị Hoàng quý phi tồn tại đối với địa vị Hoàng hậu cũng có một chút uy hiếp, chính vì vậy Hoàng hậu cũng không dám tùy ý xử phạt Hoàng quý phi.
3. Quý phi
Quý phi là một chính nhị phẩm, danh phận dành cho phi tử của Hoàng đế và có thể có đến 2 người tại vị trong hậu cung cùng một lúc. Về phẩm cấp, Quý phi thấp hơn Hoàng hậu và Hoàng quý phi, nhưng thực tế ở triều Thanh có nhiều Quý phi thống lĩnh Hậu cung như Hi Quý phi của Ung Chính, Ôn Hy Quý phi thời Khang Hy.
Quý phi có quyền lợi cũng xấp xỉ như là Hoàng quý phi, chỉ là Hoàng quý phi có thể mặc triều phục màu vàng Minh hoàng – loại màu vàng chính sắc dành cho Hoàng thái hậu, Hoàng đế và Hoàng hậu.
4. Phi
Phi thuộc hàng chính tam phẩm và có tới 4 người có thể cùng tại vị một lúc. Các Phi là những thiếp lẽ chính thức của Hoàng đế, Phi cũng có những cung riêng, mỗi Phi đều sẽ là một Cung chủ quản lí cung riêng của mình.
5. Tần
Tần là một hạng thị thiếp của Hoàng đế, thuộc vào hàng chính tứ phẩm, có thể có 6 người cùng tại vị một lúc.
6. Quý nhân
Quý nhân thường là cấp bậc cao nhất cho các tú nữ mới vào cung, không giới hạn và danh phận này thấp hơn bậc Tần. Quý nhân là “Chính lục phẩm” – một trong 3 phân vị kém nhất trong hậu cung nhà Thanh, chỉ trên Thường tại và Đáp ứng.
7. Thường tại
Là cấp bậc lớn thứ hai một tú nữ được sắc phong khi mới nhập cung và không quy định số lượng. Theo hậu cung quy sổ, Thường tại có 3 cung nữ, 2 thái giám và 2 tân giả khố thị tì theo hầu.
8. Đáp ứng
Đáp ứng thuộc hàng thấp nhất Chính thất phẩm, chỉ trên một danh vị không phẩm trật là Quan nữ tử và cũng không giới hạn số người. Cấp bậc này là cấp bậc được ấn định là thấp nhất trong cuộc thi tuyển tú của nhà Thanh.
9. Quan nữ tử
Từ thời Ung Chính, bậc Quan nữ tử (cũng gọi Cung nữ tử) là danh vị dùng để gọi các cung nữ nói chung, sang thời Ung Chính thì bắt đầu dùng để gọi các cung nữ được Hoàng đế sủng hạnh, địa vị so với cung nữ không mấy khác biệt lớn. Trừ cung nữ được thụ sủng, cũng chỉ có phi tần (từ Đáp ứng trở lên) bị biếm xuống làm Quan nữ tử, chưa thấy cung nữ được thụ phong danh vị này bao giờ, có thể thấy đây là dạng danh xưng chứ không phải vị hiệu trong hậu cung. Bên cạnh đó, Quan nữ tử cũng là danh từ dùng để gọi tì thiếp vốn là Sử nữ của các vị Hoàng tử (như Hòa phi của Thanh Tuyên Tông), địa vị ngang với Cách cách.
Dù đã có định số từng tước, nhưng dưới thời Khang Hi và Càn Long vẫn thường phá lệ phong vượt số lượng đã định, cụ thể như:
– Khang Hi năm thứ 39 đến năm thứ 50, có Ngũ phi: Đức phi, Huệ phi, Vinh phi, Nghi phi, Lương phi.
– Khang Hi năm thứ 57 trở đi, có Thất phi: Đức phi, Huệ phi, Vinh phi, Nghi phi, Hòa phi, Tuyên phi, Thành phi.
– Càn Long năm thứ 28, có Lục phi: Du phi, Khánh phi, Thư phi, Dĩnh phi, Hãn phi, Dự phi.
– Càn Long năm thứ 29 đến năm thứ 32, có Ngũ phi: Du phi, Khánh phi, Thư phi, Dĩnh phi, Dự phi.
– Càn Long năm thứ 33 đến năm thứ 38, có Ngũ phi: Du phi, Dung phi, Thư phi, Dĩnh phi, Dự phi.
– Càn Long năm thứ 41 đến năm thứ 42, có Lục phi: Du phi, Dung phi, Thư phi, Dĩnh phi, Đôn phi, Thuận phi.
– Càn Long năm thứ 43 đến năm thứ 50, có Ngũ phi: Du phi, Dung phi, Dĩnh phi, Đôn phi, Thuận phi.
Từ thời Khang Hi, phi tần chính thức đã có thể có tên gọi riêng, gọi là “Phong hiệu”. Các phong hiệu này đều do Lễ bộ soạn một lần mấy chữ cho Hoàng đế tự tuyển chọn, đây đều là các chữ mang ý cát tường, đem đến may mắn cho hậu cung nên đều có ý nghĩa thiên về mỹ đức. Quan trọng hơn hết, các ý nghĩa này khi so ra Mãn văn đều không thể trùng nhau. Ví dụ Hoa phi Hầu Giai thị của Thanh Nhân Tông, phong hiệu “Hoa” của bà ban đầu Mãn văn là “Yangsangga”, ý là “Tiếu lệ”, nhưng sau đó phát hiện phong hiệu của Tề phi Lý thị cũng có Mãn văn tương tự, nên phải đổi thành “Gincihiyan”, ý rằng “Tú mỹ” mới ổn.
Ngoài ra, khi phi tần qua đời, do thân phận đặc biệt nên từ ngữ Hán văn để mô tả cũng không bình thường mà phải biểu thị rõ thân phận thuộc hoàng cung của mình. Trong khi Hoàng hậu với Hoàng đế đồng dạng, đều được dùng “Băng thệ”, thì phi tần đều chỉ dùng “Hoăng”, ngoài ra còn một số từ khác nữa như “Mộng du” hay “Thoát thệ”.
HẬU CUNG CỦA TIÊN ĐẾ
Từ thời nhà Hán, Hoàng hậu của Tiên Đế sẽ trụ lại hoàng cung, phi tần sẽ tùy theo hoàn cảnh mà lên lăng của Tiên đế sống, hoặc cho về nhà, một số cá biệt lại bắt tuẫn tang, tức là ép chết theo Tiên đế với ý niệm hầu hạ theo sang bên kia thế giới. Đến thời kì nhà Thanh, chế độ triều đình Mãn Thanh đã khác so với các triều đại trước. Trong khi nhà Minh thời đầu tiếp tục giữ tục tuẫn tang, bắt ép các phi tần chôn theo Tiên đế, thì đến thời nhà Thanh các phi tần được ưu đãi hơn, có phẩm vị và nơi ở riêng.
Pháp độ nhà Thanh, Hoàng tổ mẫu tôn Thái hoàng thái hậu, Hoàng mẫu tôn Hoàng thái hậu, sau khi Tiên đế ngự băng, từ Hoàng thái hậu cùng phi tần của Tiên đế đều phải dọn đến bên ngoài “Long Tông môn”, nơi có một dãy kiến trúc được gọi nôm na là “Quả phụ viện” của Tử Cấm Thành. Dãy kiến trúc này lấy “Từ Ninh cung” làm đầu, bên cạnh đó còn có “Thọ Khang cung”, “Ninh Thọ cung” và “Thọ An cung”.
1. Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu
Thái Hoàng Thái hậu là tôn hiệu dành cho bà nội, còn Hoàng Thái hậu là tôn hiệu dành cho mẹ của Hoàng đế triều Thanh. Lịch sử Thanh cung chỉ có 2 vị Thái Hoàng Thái hậu, là Hiếu Trang Văn Hoàng hậu cùng Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu (tức Từ Hi Thái hậu).
Trong hậu cung, với vai trò là trưởng bối và là bà nội của Hoàng đế, Thái Hoàng Thái hậu có bối phận cao nhất đương thời, khi Hiếu Trang Văn Hoàng hậu là Thái Hoàng Thái hậu thì ý chỉ của bà được xem là tối cao nhất, nếu không có Thái Hoàng Thái hậu thì chỉ dụ của Hoàng Thái hậu mới được xem là cao nhất. Đương thời, Hiếu Trang Văn Hoàng hậu trú tại Từ Ninh cung, còn Hoàng thái hậu là Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu trú tại Ninh Thọ cung. Từ đó về sau, nơi mà Hoàng Thái hậu có thể ở được luôn không cố định, đa phần là Thọ Khang cung, đôi khi là Từ Ninh cung hoặc Ninh Thọ cung. Dù ở đâu đi nữa, thì tước vị cao hơn luôn ở cung điện có địa vị lớn nhất.
Không giống như Hoàng hậu, có thể có nhiều hơn một Hoàng Thái hậu tại vị một lúc. Đó là khi Hoàng đế là con thứ xuất, thì lúc đó theo Chế pháp đích-thứ sẽ cùng tồn tại cả hai người mẹ của đương kim Hoàng đế. Một người là Hoàng hậu của Tiên đế, tức Hoàng đích mẫu hay mẹ cả của Hoàng đế; còn người kia là sinh mẫu của Hoàng đế nhưng vốn chỉ là phi tần của Tiên đế, tức Hoàng sinh mẫu.
Vào thời nhà Minh, triều đại đầu tiên công nhận có thể tôn cùng lúc hai vị Hoàng thái hậu, quy định khá đơn giản rằng Hoàng đích mẫu sẽ có tôn hiệu, còn Hoàng sinh mẫu chỉ được gọi là Hoàng thái hậu, mà không có tôn hiệu. Sang đến đời nhà Thanh, triều đại này quy định cùng tôn hiệu cho cả hai vị Hoàng Thái hậu, nhưng có sự khác biệt về ý nghĩa danh hiệu để phân chia.
Lần đầu tiên nhà Thanh xảy ra trường hợp có cả hai Hoàng thái hậu là thời Khang Hi, nếu bỏ qua sự mập mờ không rõ ràng thời Thuận Trị. Khi ấy, Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu là Đích mẫu của Khang Hi Đế, huy hiệu “Nhân Hiến Hoàng Thái hậu”, còn mẹ sinh của Khang Hi Đế là Hiếu Khang Chương Hoàng hậu vốn chỉ là tần phi, được Khang Hi Đế tôn huy hiệu là “Từ Hòa Hoàng Thái hậu”.
Sau đó suốt thời nhà Thanh, các vị Hoàng thái hậu thường chỉ có một người. Đến thời Đồng Trị, Hoàng đế vừa có Đích mẫu Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị, vừa có sinh mẫu Ý Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị. Việc tôn phong Hoàng đích mẫu và Hoàng sinh mẫu được quy định như sau:
– Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị được tôn là Mẫu hậu Hoàng Thái hậu.
– Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị được tôn là Thánh mẫu Hoàng Thái hậu.
Sang năm sau, Đồng Trị Đế mới dâng tôn hiệu cho Mẫu hậu Hoàng Thái hậu làm “Từ An Hoàng Thái hậu”, còn Thánh mẫu Hoàng Thái hậu là “Từ Hi Hoàng Thái hậu. Nhưng đích-thứ phân biệt, người đời thường gọi quen Từ An là “Đông Thái hậu” do phía Đông là quý, còn Từ Hi được gọi là “Tây Thái hậu” do phía Tây là vị trí phụ. Việc tôn phong của Từ An cùng Từ Hi đã thành điển phạm, ảnh hưởng sâu sắc, khiến cụm “Mẫu hậu Hoàng Thái hậu” và “Thánh mẫu Hoàng Thái hậu trở thành đặc trưng tôn hiệu của triều đình nhà Thanh. Nhiều ngộ nhận cho rằng đây là việc tôn phong từ lâu của triều Thanh, nhưng thực tế chỉ mới áp dụng ở thời Đồng Trị mà thôi.
2. Các di sương phi tần
Phi tần của Hoàng đế đời trước mà không phải là sinh mẫu của đương kim Hoàng đế thì trú tùy nghi ở các cung, đều cầu cận nhau mà sống. Khi có đại yến tổ chức ở Từ Ninh cung, họ mới tập họp lại mà vui vẻ, ngày thường thì họ đến các Phật đường được xây cất trong Từ Ninh cung để dâng hương, tạm yên ổn mà sống qua kiếp người. Nếu họ có con trai được phong tước thì có thể được đặc cách dọn tới Vương phủ ở cùng con, nếu không sẽ ở Từ Ninh cung hoặc Thọ Khang cung, tuy nhiên điều này chỉ xảy ra đối với các phi tần của Khang Hi Đế, do ông đã ra chỉ dụ cho phép phi tần có con có thể đến phủ của con mình ở, như Nghi phi cùng Định phi.
Theo thông lệ, Hoàng đế sẽ gọi chung các phi tần này là “Thái phi”, nhưng đó chỉ là cách gọi chung chứ không phải tước vị chính thức. Theo cách chính xác nhất, Hoàng đế sẽ gọi phi tần của Hoàng phụ theo yếu tố “Hoàng khảo” để phân biệt với hậu phi của đương kim Hoàng đế, tương tự với những phi tần của Hoàng tổ phụ, thì Hoàng đế sẽ tôn với huy hiệu “Hoàng tổ”. Ngoài ra, Hoàng đế vì lý do gì đó cũng có thể tấn phong họ lên một cấp bậc cao hơn, có đãi ngộ tốt hơn, và những đãi ngộ ấy đều theo mức tước vị quy định trong hệ thống phi tần.
Ví dụ như:
– Hai vị phi tần của Thanh Thánh Tổ, là Khác Huệ Hoàng quý phi Đông Giai thị vốn là Quý phi, Đôn Di Hoàng quý phi Qua Nhĩ Giai thị vốn là Hòa phi. Thế Tông lên ngôi tấn tôn lần lượt là Hoàng khảo Hoàng quý phi và Hoàng khảo Quý phi.
– Thuần Khác Hoàng quý phi Cảnh thị, khi Thế Tông giá băng chỉ là Dụ phi, Cao Tông lên ngôi thì tấn phong Hoàng khảo Dụ Quý phi.
– Tấn phi Phú Sát thị của Cao Tông, vốn là Quý nhân, sang thời Tuyên Tông thì tôn làm Hoàng tổ Tấn phi.
Nếu khi đó không có Hoàng Thái hậu, thì vị “Di sương tần phi” có địa vị cao có thể sẽ đứng đầu chúng phi tiền triều, được tôn làm “Thái phi” bởi sách văn chính thức chứ không phải kính gọi thông thường. Lệ này có từ thời Khang Hi Đế khi tôn Thọ Khang Thái phi làm “Hoàng tổ Thọ Khang Thái phi”. Từ đây có lệ, tấn tôn vị Phi có địa vị tôn quý nhất làm Thái phi, như sau đó Càn Long Đế tôn Đôn Di Hoàng quý phi làm “Ôn Huệ Hoàng quý Thái phi”. Khi Càn Long Đế thoái vị làm Thái thượng hoàng, Thanh Nhân Tông vẫn gọi các Uyển Quý phi cùng Dĩnh Quý phi là “Thái phi” để tôn trọng dù không chính thức gia tôn mà chỉ gọi là “Hoàng khảo Quý phi”.
Nếu trường hợp có các “Hoàng tổ di phi” còn sống, thì các Hoàng tổ di phi sẽ có thể trở thành Thái phi cao hơn là các “Hoàng khảo di phi”. Sau thời Càn Long, có Trang Thuận hoàng quý phi thời Đồng Trị hay Đoan Khác Hoàng quý phi thời Tuyên Thống đều trở thành các Thái phi. Cũng có trường hợp thiện đãi, nên dù có Thái hậu thì vẫn có thể trở thành “Thái phi”, như Trang Tĩnh Hoàng quý phi Tha Tha Lạp thị, trở thành Hoàng quý Thái phi theo chỉ dụ của Từ An Thái hậu và Từ Hi Thái hậu.
Vậy là với những thông tin mà https://travel.duhoctrungquoc.vn/ vừa mới chia sẻ trên đây, du khách đã có thêm sự hiểu biết về hệ thống thứ bậc của hậu cung Nhà Thanh. Nếu du khách là người yêu thích lịch sử Trung Hoa và muốn khám phá nhiều hơn thì hãy thực hiện ngay một chuyếndu lịch Trung Quốccùng người bạn đồng hànhhttps://travel.duhoctrungquoc.vn/nhé!
Thông tin bài viết được thu thập và tổng hợp từ Nguồn Internet chỉ mang tính chất tham khảo.
Bài viết này được cập nhật lần cuối (Last updated): 17-03-2020 20:48:59
Danh mục đăng tin:Ẩm thực Trung Hoa, Văn hoá - Con người,