Maurice Maeterlinck

Maurice Polidore Marie Bernhard Maeterlinck (29 tháng 8 năm 1862 - 6 tháng 5 năm 1949) là một nhà viết kịch, nhà thơ, nhà triết học người Bỉ, giải Nobel Văn học năm 1911.

Maurice Maeterlinck
Maurice Maeterlinck
Sinh29 tháng 4 năm 1862
Ghent, Bỉ
Mất6 tháng 5 năm 1949
Nice, Pháp
Nghề nghiệpNhà thơ
Quốc tịchngười Bỉ
Phối ngẫuRenée Dahon

Tiểu sử Maurice Maeterlinck

Maurice Maeterlinck sinh tại Ghent trong một gia đình Pháp khá giả, bố làm công chứng, mẹ là con gái một luật sư giàu có. Sau khi tốt nghiệp luật tại Đại học Ghent vào năm 1885, Maeterlinck đi Paris. Năm 1886, ông gia nhập Đoàn Luật sư Ghent, viết thơ, ký, phê bình cho các báo và tạp chí như La Jeune Belgique, La Wallonie... Năm 1886 ông in truyện ngắn đầu tiên Le massacre des innocénts (Cuộc tàn sát những kẻ vô tội); năm 1889 ông xuất bản tập thơ đầu tiên và vở kịch đầu tiên, được nhà phê bình Octave Mirbeau của báo Le Figaro hết lời khen ngợi. Từ đó ông bỏ nghề luật sư. Trong những năm tiếp theo, ông viết hàng loạt vở kịch cổ tích, tượng trưng, kịch rối... Năm 1895 Maeterlinck cưới vợ là Leblan - diễn viên tham gia đóng các vở kịch của ông và năm 1896 sang Paris sinh sống. Maeterlinck ủng hộ nghệ thuật thuần túy, là một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái tượng trưng cả trong thơ ca lẫn sân khấu, trong các tác phẩm của mình mở ra một thế giới đầy màu sắc, mộng ảo chống lại số phận khắc nghiệt. Năm 1909 ông viết xong vở kịch L'Oiseau Bleu (Con chim xanh), một kiệt tác của sân khấu kể về những cuộc phiêu lưu kiếm tìm hạnh phúc qua hình tượng con chim xanh và đã trở thành một điển cố văn học biểu tượng cho hạnh phúc tình yêu cũng như đã được dựng lên trong nhiều phim.

Maurice Maeterlinck được trao giải Nobel năm 1911 nhờ những tác phẩm kịch mang nội dung phong phú, giàu tưởng tượng đầy thi vị. Kịch của ông thể hiện những hệ thống triết lý hình thành một cách trực giác. Mô típ cái chết thường xuyên hiện diện trong tác phẩm của ông ở giai đoạn cuối mang thêm màu sắc của chủ nghĩa thần bí. Maeterlinck được coi là một trong những người khởi đầu của sân khấu kịch phi lí; các vở kịch của ông đến ngày nay vẫn được dàn dựng ở nhiều nước trên thế giới.

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông xin vào dân quân nhưng không được chấp nhận vì quá tuổi và nhà văn đã thể hiện lòng yêu nước bằng hàng loạt cuộc nói chuyện tuyên truyền ở châu ÂuMỹ. Năm 1939 Đức quốc xã đe dọa chiếm cả châu Âu, Maeterlinck chạy sang Bồ Đào Nha và khi cảm thấy Bồ Đào Nha cũng sẽ bị chiếm, ông cùng với vợ sang Mỹ. Năm 1947 ông trở về Nice, Pháp.

Ngoài giải Nobel, Maeterlinck được vua Leopold III của Bỉ tặng huân chương Đại thập tự (1920), huân chương Thanh kiếm của Bồ Đào Nha (1939) và được vua Albert I của Bỉ phong tước hiệu Bá tước (1932). Ông mất tại Nice, Pháp.

Tác phẩm Maurice Maeterlinck

Maurice Maeterlinck 
Maurice Maeterlinck trước năm 1905
  • Le massacre des innocénts (Cuộc tàn sát những kẻ vô tội, 1886), truyện
  • Serres chaudes (Vườn kính, 1889), tập thơ
  • La princesse Maleine (Công chúa Maleine, 1889), kịch
  • L'intruse (Người đàn bà đột nhập, 1890), kịch
  • Les aveugles (Những người mù, 1890), kịch
  • Les sept princesses (Bảy nàng công chúa, 1891), kịch
  • Pelléas et Mélisande (Pelleas và Mélisande, 1892), kịch
  • Alladine et Palomides (Alladine và Palomides, 1894), kịch
  • La mort de Tintagiles (Cái chết của Tintagiles, 1894), kịch
  • Le trésor des humbles (Kho báu của những kẻ nhẫn nhục, 1896), luận văn mĩ học
  • Douze chansons (Mười hai khúc ca, 1896), thơ
  • Quinze Chansons (Mười lăm Khúc ca), thơ
  • Aglavaine et Selysette (Aglavaine và Selysette, 1896), kịch cổ tích
  • Le sagesse et la destinée (Khôn ngoan và định mệnh, 1898), khảo luận triết học
  • La vie des abeilles (Đời sống loài ong, 1900), khảo luận
  • Ariane et Barbe-Bleue (Ariane và gã Râu Xanh, 1901), kịch
  • Monna Vanna (1902), kịch
  • Le temple enseveli (Ngôi đền vùi lấp, 1902)
  • Joyselle (1903), kịch
  • Le miracle de Saint-Antoine (Điều kì diệu của thánh Antoine, 1903), kịch
  • L'intelligence des fleurs (Trí tuệ của hoa, 1907)
  • L'oiseau bleu (Con chim xanh, 1909), kịch
  • Bourgmestre de Stilemonde (Thị trưởng Stilemonde, 1919)
  • La grande féerie (Miền tiên cảnh lớn, 1924), tiểu luận
  • Le malheur passe (Tai họa đã qua, 1925), kịch
  • La vie des termites (Đời sống của mối, 1926), tiểu luận
  • La vie de l'espase (Đời sống không gian vũ trụ, 1928), tiểu luận
  • La vie des fourmis (Đời sống loài kiến, 1930), tiểu luận
  • La grande loi (Quy luật vĩ đại, 1933), tiểu luận
  • Devant Dieu (Trước mặt Chúa, 1937), tiểu luận
  • L'autre monde ou le cardan stellaire (Thế giới khác, hay khớp vũ trụ, 1942), tiểu luận

Tác phẩm Maurice Maeterlinck đã dịch ra tiếng Việt

  • Con chim xanh (L'oiseau bleu) (kịch), Nguyễn Trường Lịch dịch, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997
  • Nếu ngày kia anh trở lại (thơ), Phạm Nguyên Phẩm dịch, in trong tập 100 bài thơ Pháp, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998
  • Chiếc mũ trí tuệ (truyện ngắn), Dương Thu Ái dịch, in trong Tuyển tập truyện nổi tiếng thế giới, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, 2004
  • Thông thái và số phận - Tiểu luận triết học, Nguyễn Trí Dũng dịch, NXB Thế giới.
  • Đời Ong - Tiểu luận triết học, Thi Hoa dịch, NXB Thế giới.
  • Trí tuệ của Hoa - Tiểu luận triết học, Thi Hoa dịch, NXB Thế giới.

Trích từ Quinze Chansons (15 Khúc ca) Maurice Maeterlinck

    II
    Et s'il revenait un jour
    Que faut-il lui dire?
    - Dites-lui qu'on l'attendit
    Jusqu'à s'en mourir...
    Et s'il m'interroge encore
    Sans me reconnaître?
    - Parlez-lui comme une sœur,
    II souffre peut-être...
    Et s'il demande où vous êtes
    Que faut-il repondre?
    - Donnez-lui mon anneau d'or
    Sans rien lui répondre...
    Et s'il veut savoir pourquoi
    La salle est déserte ?
    - Montrez-lui la lampe éteinte
    Et la porte ouverte...
    Et s'il m'interroge alors
    Sur la dernière heure?
    - Dites-lui que j'ai souri
    De peur qu'il ne pleure...
    III
    Ils ont tué trois petites filles
    Pour voir ce qu'il y a dans leur cœur.
    Le premier était plein de bonheur;
    Et partout où coula son sang,
    Trois serpents sifflèrent trois ans.
    Le deuxième était plein de douceur,
    Et partout où coula son sang,
    Trois agneaux broutèrent trois ans.
    Le troisième était plein de malheur,
    Et partout où coula son sang,
    Trois archanges veillèrent trois ans.
    V
    Les trois sœurs aveugles
    (Espérons encore)
    Les trois sœurs aveugles
    Ont leurs lampes d'or;
    Montent à la tour,
    (Elles, vous et nous)
    Montent à la tour,
    Attendent sept jours...
    Ah ! dit la première,
    (Espérons encore)
    Ah ! dit la première,
    J'entends nos lumières...
    Ah ! dit la seconde,
    (Elles, vous et nous)
    Ah ! dit la seconde,
    C'est le roi qui monte...
    Non, dit la plus sainte,
    (Espérons encore)
    Non, dit la plus sainte,
    Elles se sont éteintes...
    VI
    On est venu dire,
    (Mon enfant, j'ai peur)
    On est venu dire
    Qu'il allait partir...
    Ma lampe allumée,
    (Mon enfant, j'ai peur)
    Ma lampe allumée,
    Me suis approchée...
    À la première porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
    A la première porte,
    La flamme a tremblé...
    À la seconde porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
    À la seconde porte,
    La flamme a parlé...
    À la troisième porte,
    (Mon enfant, j'ai peur)
    À la troisième porte,
    La lumière est morte...
    VII
    Les sept filles d'Orlamonde,
    Quand la fée fut morte,
    Les sept filles d'Orlamonde,
    Ont cherché les portes.
    Ont allumé leurs sept lampes,
    Ont ouvert les tours,
    Ont ouvert quatre cents salles,
    Sans trouver le jour...
    Arrivent aux grottes sonores,
    Descendent alors;
    Et sur une porte close,
    Trouvent une clef d'or.
    Voient l'océan par les fentes,
    Ont peur de mourir,
    Et frappent à la porte close,
    Sans oser l'ouvrir...
    X
    Quand l'amant sortit
    (J'entendis la porte)
    Quand l'amant sortit
    Elle avait souri...
    Mais quand il rentra
    (J'entendis la lampe)
    Mais quand il rentra
    Une autre était là...
    Et j'ai vu la mort
    (J'entendis son âme)
    Et j'ai vu la mort
    Qui l'attend encore...
    XIII
    J'ai cherché trente ans, mes sœurs,
    Où s'est-il caché?
    J'ai marché trente ans, mes sœurs,
    Sans m'en approcher...
    J'ai marché trente ans, mes sœurs,
    Et mes pieds sont las,
    II était partout, mes sœurs,
    Et n'existe pas...
    L'heure est triste enfin, mes sœurs,
    Ôtez mes sandales,
    Le soir meurt aussi, mes sœurs,
    Et mon âme a mal...
    Vous avez seize ans, mes sœurs,
    Allez loin d'ici,
    Prenez mon bourdon, mes sœurs,
    Et cherchez aussi...
    II
    Nếu một ngày người ấy quay trở lại
    Thì em biết nói gì với người ta?
    - Hãy nói rằng chị đã chờ mòn mỏi
    Đến một hôm, đã kiệt sức trông chờ...
    Thế nếu như người ấy không nhận ra
    Nếu như em bị người ta gặng hỏi?
    - Em cứ lựa lời nói với người ta
    Có thể người ta cũng đau buồn đấy...
    Nếu người hỏi biết tìm chị nơi đâu
    Thì biết nói sao cho người yên dạ?
    - Chiếc nhẫn vàng của chị em hãy trao
    Cho người ấy, đừng nói thêm gì cả...
    Nhưng nếu như người ta hỏi em rằng
    Sao không có lửa, sao nhà vắng vậy?
    - Em hãy chỉ vào cánh cửa mở toang
    Và ngọn đèn đã tắt cho người ấy...
    Thế nếu như người ấy hỏi em rằng
    Chị có buồn, chị có từng than thở
    - Em hãy nói rằng chị đã cười lên
    Để người ta vì chị mà đau khổ...
    III
    Người ta đã giết chết ba cô bé
    Để xem những gì trong tim của họ.
    Con tim đầu tiên tràn đấy hạnh phúc
    Và kể từ khi máu chảy trên đất
    Có ba con rắn rít trong ba năm.
    Con tim thứ hai đầy sự dịu dàng
    Và kể từ khi máu chảy xuống đó
    Có ba con cừu giữ trong ba năm.
    Con tim thứ ba chứa đầy đau khổ
    Và kể từ ngày máu rơi xuống đó
    Mắt ba thiên thần nhìn suốt ba năm.
    V
    Có ba chị em mù
    (Hy vọng và hy vọng)
    Ba chị em mù quáng
    Có ba cây đèn vàng.
    Cả ba đi lên tháp
    (Họ, bạn và chúng tôi)
    Cả ba cùng lên tháp
    Chờ đợi trong bảy ngày…
    Ôi! – Một người kêu lên
    (Hy vọng và hy vọng)
    Ôi! – Một người kêu lên
    Đèn của tôi chiếu sáng…
    Ôi! – Tiếng người thứ hai
    (Họ, bạn và chúng tôi)
    Ôi! – Người thứ hai nói
    Vua đang đi lên kìa…
    Người thứ ba nói – Không!
    (Hy vọng còn đâu nữa)
    Người thần thánh nói – Không!
    Và đèn tắt trong gió…
    VI
    Người ta đến nói rằng
    (Các con ơi, ta sợ)
    Người ta đến nói rằng
    Chàng đã không còn nữa…
    Ta thắp ngọn đèn lên
    (Các con ơi, ta sợ)
    Ta thắp ngọn đèn lên
    Rồi ra đi với nó…
    Ở cánh cửa đầu tiên
    (Các con ơi, ta sợ)
    Ở cánh cửa đầu tiên
    Thấy run run ngọn lửa…
    Ở cánh cửa thứ hai
    (Các con ơi, ta sợ)
    Ở cánh cửa thứ hai
    Ngọn lửa đang thầm thĩ…
    Ở cánh cửa thứ ba
    (Các con ơi, ta sợ)
    Ở cánh cửa thứ ba
    Ánh sáng không còn nữa…
    VII
    Bảy con gái của tiên
    Khi mẹ họ đã chết
    Bảy con gái của tiên
    Đi tìm đường để thoát.
    Họ thắp bảy ngọn đèn
    Chìa khóa ngày đâu mất
    Tìm khắp bốn trăm phòng
    Chỉ bóng đêm dày đặc.
    Đến hang động âm thanh
    Đi xuống theo thời gian
    Bên cánh cửa đóng kín
    Họ thấy chìa khóa vàng.
    Nhìn thấy biển bao la
    Các con gái sợ chết
    Trước cánh cửa kín mít
    Họ không dám mở ra.
    X
    Chàng trai đã ra đi
    (Cửa rung lên – tôi biết)
    Chàng trai đã ra đi
    Nàng mỉm cười vĩnh biệt…
    Chàng trai quay trở lại
    (Đèn nói – tôi biết mà)
    Chàng trai quay trở lại
    Nhưng nàng đã đi xa...
    Tôi nhìn ra cái chết
    (Tôi biết tâm hồn chàng)
    Tôi nhìn ra cái chết
    Tôi đã lấy hồn anh...
    XIII
    Tôi đi tìm ba mươi năm rồi, chị em ơi
    Chàng trốn ở đâu đó?
    Tôi lang thang ba mươi năm rồi, chị em ơi
    Không tìm ra đâu cả…
    Ba mươi năm tôi thơ thẩn, chị em ơi
    Đôi chân của tôi mệt lử
    Chàng ở khắp mọi nơi, chị em ơi
    Mà không nơi này nơi nọ…
    Giờ buồn đến gần rồi, chị em ơi
    Buồn đau gần lắm
    Buổi tối cũng chết, chị em ơi
    Hồn tôi đau lắm…
    Em mới mười sáu tuổi, chị em ơi
    Giờ đến lượt em rồi đấy
    Hãy nhận lậy cây gậy này, chị em ơi
    Rồi đi tìm cho thấy…
    Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng

Liên kết Maurice Maeterlinck

Tham khảo

Tags:

Tiểu sử Maurice MaeterlinckTác phẩm Maurice MaeterlinckTrích từ Quinze Chansons (15 Khúc ca) Maurice MaeterlinckLiên kết Maurice MaeterlinckMaurice MaeterlinckBỉGiải Nobel Văn họcNhà viết kịch

🔥 Trending searches on Wiki Tiếng Việt:

Thích Nhất HạnhThuốc thử TollensHybe CorporationMưa sao băngVương Đình HuệBộ bộ kinh tâm (phim truyền hình)Nguyễn Văn NênRobloxSingaporeVườn quốc gia Phong Nha – Kẻ BàngKhánh HòaTổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt NamBình PhướcLý Thường KiệtGallonPhú YênCố đô HuếTập đoàn VingroupGái gọiBiến đổi khí hậuQuân khu 7, Quân đội nhân dân Việt NamDanh sách Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong Chiến dịch Điện Biên PhủTào TháoLiên Hợp QuốcTrương Tấn SangSố nguyên tốChợ Bến ThànhNgười TàyCảm tình viên (phim truyền hình)Thích-ca Mâu-niCải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt NamZaloKiên GiangNguyễn Ngọc LâmDanh sách ngân hàng tại Việt NamDanh sách động từ bất quy tắc (tiếng Anh)FansipanẤn ĐộViêm da cơ địaVăn LangNgười ChămMáy tínhMười hai con giápLê Đức ThọGiê-suDanh sách biện pháp tu từLeonardo da VinciVụ án cầu Chương DươngLê Minh KhuêGMMTVHợp sốGiờ Trái ĐấtViễn PhươngVụ án Lê Văn LuyệnDanh sách nhà vô địch bóng đá AnhDinh Độc LậpÂm đạoDanh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu ngườiDanh sách nhân vật trong One PieceTứ bất tửĐạo Cao ĐàiSécLionel MessiPhởTruyện KiềuQuân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt NamTiếng Trung QuốcPhilippe TroussierMaría ValverdeMalaysiaNguyễn Ngọc TưNhật BảnĐại tướng Quân đội nhân dân Việt NamNVIDIAVnExpressBlue LockAnhShopee🡆 More