Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu (Tiếng Trung: 孝和睿皇后, tiếng Mãn: ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠ ᡥᡡᠸᠠᠯᡳᠶᠠᠰᡠᠨ ᠰᡠᠩᡤᡳᠶᡝᠨ ᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ, Möllendorff: hiyoošungga hūwaliyasun sunggiyen hūwangheo, Abkai: hiyouxungga hvwaliyasun sunggiyen hvwangheu; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi Cung Từ Hoàng thái hậu (恭慈皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế.
Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu 孝和睿皇后 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Gia Khánh Đế Hoàng hậu | |||||||||
Hoàng quý phi Đại Thanh | |||||||||
Tại vị | 20 tháng 5 năm 1797 - 18 tháng 4 năm 1799 | ||||||||
Đăng quang | 17 tháng 10 năm 1797 | ||||||||
Tiền nhiệm | Hoàng quý phi Ngụy thị | ||||||||
Kế nhiệm | Hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị | ||||||||
Hoàng hậu Đại Thanh | |||||||||
Tại vị | 18 tháng 4 năm 1799 - 25 tháng 7 năm 1820 | ||||||||
Đăng quang | 15 tháng 4 năm 1801 | ||||||||
Tiền nhiệm | Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu | ||||||||
Kế nhiệm | Hiếu Thận Thành Hoàng hậu | ||||||||
Hoàng thái hậu Đại Thanh | |||||||||
Tại vị | 25 tháng 7 năm 1820 - 11 tháng 12 năm 1849 | ||||||||
Đăng quang | 2 tháng 12 năm 1820 | ||||||||
Tiền nhiệm | Sùng Khánh Hoàng thái hậu | ||||||||
Kế nhiệm | Khang Từ Hoàng thái hậu | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | 20 tháng 11, 1776 | ||||||||
Mất | 23 tháng 1, 1850 Thọ Khang cung, Tử Cấm Thành, Bắc Kinh | (73 tuổi)||||||||
An táng | 26 tháng 2 năm 1853 Xương Tây lăng (昌西陵), Thanh Tây lăng | ||||||||
Phối ngẫu | Gia Khánh Gia Khánh Hoàng đế | ||||||||
Hậu duệ Hiếu Hòa Duệ Hoàng Hậu |
| ||||||||
| |||||||||
Thân phụ | Cung A Lạp | ||||||||
Thân mẫu | Diệp Hách Na Lạp thị |
Xuất thân đại tộc Nữu Hỗ Lộc thị, Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu được Càn Long Đế chỉ định làm Trắc Phúc tấn cho Gia Thân vương (sau là Gia Khánh Đế). Sau khi phu quân bà đăng cơ Hoàng đế, bà được phong Quý phi, rồi Hoàng quý phi kèm theo chỉ dụ kế vị Hoàng hậu sau khi mãn tang Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu. Đặc biệt hơn các vị Hoàng hậu khác, con đường làm chính cung của bà tương đối suôn sẻ do bà nhận nhiều hậu thuẫn từ cha chồng Càn Long Đế, đến cả chỉ dụ lập Hậu cũng đều do Càn Long Đế sắp đặt. Tuy bản thân sinh hai Hoàng đích tử cho Gia Khánh Đế, nhưng cuối cùng Gia Khánh Đế vẫn chọn con trai của Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu là Hoàng nhị tử Miên Ninh làm người kế vị, sau là Đạo Quang Đế. Dù chỉ là mẹ kế, bà vẫn được Đạo Quang Đế kính trọng.
Kể từ khi làm Hoàng hậu dưới triều Gia Khánh và làm Hoàng thái hậu dưới triều Đạo Quang, Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu tại vị tối cao trong hậu cung nhà Thanh trong vòng 48 năm. Với tuổi thọ 73 tuổi, bà trở thành một trong những Hoàng thái hậu trường thọ nhất triều đại này, bên cạnh Sùng Khánh Hoàng thái hậu (85 tuổi), Nhân Hiến Hoàng thái hậu (76 tuổi), Chiêu Thánh Hoàng thái hậu (74 tuổi) cùng Từ Hi Hoàng thái hậu (74 tuổi).
Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu sinh ngày 10 tháng 10 (âm lịch) năm Càn Long thứ 41 (1776), xuất thân từ gia tộc Nữu Hỗ Lộc, một tộc thị của người Mãn Châu, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Căn cứ theo Phổ hệ của Hoằng Nghị công phủ, bà là thuộc dòng dõi của Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô - một đại công thần khai quốc nhà Thanh.
Vì là một công thần khai quốc, hậu duệ của gia tộc Nữu Hỗ Lộc thị thuộc nhánh Ngạch Diệc Đô được người Bát Kỳ xem là "Danh môn trong các danh môn", cực kỳ hiển quý và có địa vị xã hội Mãn Thanh cực lớn, hầu hết Hậu phi mang họ Nữu Hỗ Lộc thị của nhà Thanh đều xuất thân từ gia tộc này, như Thanh Thái Tông Nguyên phi cùng Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu. Thủy tổ của chi hệ Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu là con trai thứ 6 của Ngạch Diệc Đô, có tên Đạt Long Ái (達隆藹). Mẫu thân của Đạt Long Ái là Quận chúa Giác La thị - con gái của bá phụ Thanh Thái Tổ là Đa La Vũ Công Quận vương Lễ Đôn Ba Đồ Lỗ (禮敦巴圖魯). Căn cứ theo ghi chép của Phổ hệ, Đạt Long Ái vốn có tật nên chưa làm quan.
Dù không làm quan, nhưng với thân phận là con thứ của Hoằng Nghị công, Đạt Long Ái vẫn có hào quang gia tộc nhất định. Ông nghênh thú Qua Nhĩ Giai thị, là con gái của Ô Nhĩ Hán Mặc Nhĩ Căn (烏爾漢墨爾根). Con trai ông là Ước Bái (約拜) nguyên nhậm Hộ quân thống lĩnh, sau thành Nhất đẳng Thị vệ, ông cưới đồng kỳ Mãn Châu Na Lạp thị, là tổ cô của Bố chính sứ Triều Kỳ (朝奇). Ước Bái có một con gái gả cho Ban Đệ thuộc Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ, hậu duệ của anh trai Hiếu Trang Văn Hoàng hậu là Trát Tát Khắc Đạt Nhĩ Hãn Thân vương Mãn Châu Tập Lễ (滿珠習禮). Do đó, Nữu Hỗ Lộc thị về sau là kế tổ mẫu của Ngạch phò Sắc Bố Đằng Ba Lạc Châu Nhĩ (色布腾巴勒珠尔) - chồng của Cố Luân Hòa Kính Công chúa.
Con trai của Ước Bái là Tích Đặc Mộc Bố (錫特木布), làm đến Nhị đẳng Thị vệ, kết hôn với Tương Bạch kỳ Na Lạp thị là cháu của Đô thống Mã Tề (馬齊), sau lại cưới Mãn Châu Tương Hoàng kỳ Tát Khắc Đặc thị (薩克達氏) - con gái của Lang trung bộ Hình là Hi Phật (希佛). Tích Đặc Mộc Bố có con trai cả là Công Nguyên (公元), hay Tây Nguyên (西元), vào thời Khang Hi lấy Bút thiếp nhập sĩ, làm đến Chủ sự, trong năm Ung Chính làm Lang trung, lại thăng đến Án sát Quảng Đông, rồi Tổng binh Thái Ninh. Ông cưới đồng kỳ Mãn Châu Qua Nhĩ Giai thị, con gái Loan Nghi vệ Vân huy sử Phó Thật (傅實), sau lại cưới đồng kỳ Mãn Châu Tát Khắc Đặc thị, là con gái Nhị đẳng Thị vệ Hòa Thạc (和碩), sau lại cưới Tương Bạch kỳ Mãn Châu Phú Sát thị, là con gái của Kỵ đô úy Y Lâm (伊林).
Qua những tiến trình làm quan của hậu duệ nam giới, gia đình của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu đến thời kì ông cụ nội tuy không làm những chức vị quá cao, song cũng giữ được phong thái bậc lương gia, thậm chí có thể liên hôn với quý tộc Mông Cổ Khoa Nhĩ Thấm bộ, đây chính là lợi thế cơ bản của việc xuất thân danh môn Hoằng Nghị công phủ. Công Nguyên có ba con trai, con trai thứ 3 là Công Bảo (公保) - chính là ông nội của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu.
Tổ phụ Công Bảo sinh năm Ung Chính năm thứ 11, vào năm Càn Long thứ 20 thi đậu "Bút thiếp thức" mà tiến vào quan lộ, năm thứ 23 bổ phụ vào bộ Công làm Bút thiếp thức, năm thứ 28 lại vì bệnh mà cáo hưu. Về cơ bản, Công Bảo chưa chạm đến con đường làm quan chân chính thế nhưng lại tương đối trường thọ, từng tham gia Thiên Tẩu yến (千叟宴) năm Càn Long thứ 60, cuối cùng qua đời trong đời Gia Khánh thứ 6, cùng năm đó cháu gái ông được lập làm Hoàng hậu. Ông cưới Chính Lam kỳ Tông thất nữ Giác La thị - là con gái của Phụng ân Tướng quân Tăng Thành (增誠), hậu duệ của Mục Nhĩ Cáp Tề. Sau đó, khi Giác La thị qua đời, Công Bảo lại cưới Tương Bạch kỳ Mãn Châu Na Lạp thị - con gái của Hộ quan Tham lĩnh Châu Long A (珠隆阿). Như vậy ta thấy được rằng, có khả năng liên hôn được với con gái Tông thất, tuy rằng chi hệ của Công Bảo đã ở rất xa chi chính phái của Hoằng Nghị công phủ, song danh tiếng "Hậu duệ Hiếu Hòa Duệ Hoàng Hậu của Hoằng Nghị công" vẫn còn hiện hữu.
Công Bảo có ba con trai, con cả là Cung A Lạp (恭阿拉), cũng chính là cha của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu, sinh năm Càn Long thứ 18, năm thứ 36 kế tục đường thúc huân cựu Tá lĩnh mà nhập sĩ, nhận chức Tham lĩnh dưới triều Càn Long. Qua đời năm Gia Khánh thứ 17, sau khi hưởng hết vinh quang do con gái đem lại. Con trai thứ của Công Bảo là một vị tên gọi Na Mộc Tát Nhĩ Trát Phổ (那木萨尔扎普), lấy làm con thừa tự của chi khác, còn con út Minh Thiện (明善) sinh ra khá muộn, chỉ hơn Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu 1 tuổi. Mẹ của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu thuộc tộc Diệp Hách Na Lạp thị, con gái của Mãn Châu Chính Bạch kỳ Nhất đẳng Nam Bạch Minh (白明), sinh năm Càn Long thứ 19, qua đời năm Gia Khánh thứ 9, hạ sinh ra 3 nam và 3 nữ, trong đó Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu là trưởng nữ; anh cả Ninh Vũ Thái (寧武泰) chết trẻ, em trai Hòa Thế Thái (和世泰) và Cát Luân Thái (吉倫泰). Hai em gái bà, một người thua bà 6 tuổi, một người thua bà 13 tuổi. Về sau đều được chỉ hôn trong những cuộc hôn nhân tốt.
Thuận tiện nhắc tới, Cung Thuận Hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị, một sủng phi khác của Gia Khánh Đế cũng xuất thân từ Hoằng Nghị công phủ. Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu và Cung Thuận Hoàng quý phi có quan hệ không chỉ họ hàng xa, mà còn thông qua hôn nhân nữa, vì em gái của hai bà đều làm dâu cho Túc Cung Thân vương Vĩnh Tích, là một Thiết mạo tử vương, hậu duệ của Túc Vũ Thân vương Hào Cách.
Vào khoảng năm Càn Long thứ 47 (1782), có một tư liệu nội đình ghi nhận đáng chú ý liên quan đến Nữu Hỗ Lộc thị, ghi lại: 「Thập công chúa Thị độc Nữu Hỗ Lộc thị, Tá lĩnh Cung A Lạp chi nữ; 十公主侍读钮祜禄氏,佐领恭阿拉之女。」. Cái gọi là [Thị độc], chính là bạn học trong việc giáo dục của một hoàng tử hay hoàng nữ triều đình. Mà Thập công chúa, tức Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa, là cô con gái út được Càn Long Đế sủng ái. Công chúa sinh vào năm Càn Long thứ 40 (1775), chỉ hơn Nữu Hỗ Lộc thị một tuổi, và dù tư liệu không chỉ đích danh, thế nhưng vào thời điểm đó thì chỉ con gái cả của Cung A Lạp là phù hợp để làm bạn học cho Thập công chúa mà thôi. Từ đây có thể thấy được, Nữu Hỗ Lộc thị đã từ sớm được tiếp xúc với môi trường cung đình, và có lẽ đây là nguyên nhân lớn khiến Thanh Cao Tông Càn Long Đế chọn Nữu Hỗ Lộc thị làm con dâu về sau.
Năm Càn Long thứ 54 (1790), Nữu Hỗ Lộc thị được 14 tuổi tham dự Bát Kỳ tuyển tú. Bà được Càn Long Đế đặc chỉ chọn trở thành trắc thất của Hoàng thập ngũ tử Vĩnh Diễm, tước vị của bà là Trắc Phúc tấn. Cung đình thời nhà Thanh quy định, nhận danh vị Trắc Phúc tấn thường có hai loại: loại tương đối phổ biến nhất là từ vị hầu thiếp, tức Cách cách. Loại này do sinh hạ con cái mà tấn phong, xuất thân từ giai cấp Bao y, là Sử nữ được nạp vào Hoàng tử phủ hầu hạ, không có hôn lễ chính thức. Loại thứ 2 là từ Bát Kỳ tuyển tú, được chỉ định chọn làm Trắc thất cho các Hoàng tử, vì vậy các Trắc Phúc tấn này có hôn lễ đầy đủ chỉn chu không kém mấy so với Đích Phúc tấn. Vào lúc này, Đích Phúc tấn của Gia Thân vương là Hỉ Tháp Lạp thị (tức Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu), sau khi tiểu sản vào năm thứ 50 (1786) đã có biểu hiện thân thể suy yếu. Vào năm thứ 51 (1787), Càn Long Đế mệnh Hoàn Nhan thị nhập cung làm Trắc Phúc tấn, ý tứ rất rõ ràng là để phòng khi Đích Phúc tấn Hỉ Tháp Lạp thị mất sẽ có người thay thế ngay. Thế nhưng vị Hoàn Nhan thị này cũng bất hạnh qua đời không lâu sau đó. Xét về gia thế, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ Nữu Hỗ Lộc thị xuất thân gia thế tầm trung, nhưng tốt xấu gì cũng là hậu duệ của Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô, so ra cũng thậm chí cao hơn Đích Phúc tấn Hỉ Tháp Lạp thị có nguồn gốc là Bao y. Trước tình thế đó, sau khi Vĩnh Diễm thụ phong [Gia Thân vương], Càn Long Đế liền chỉ định Nữu Hỗ Lộc thị làm trắc thất của Gia Thân vương, cho thấy ý vị chọn sẵn kế thê của Càn Long Đế phòng khi Đích Phúc tấn Hỉ Tháp Lạp thị qua đời rất rõ ràng.
Năm Càn Long thứ 57 (1793), ngày 26 tháng 6, Nữu Hỗ Lộc thị hạ sinh con gái thứ 7 của Gia Thân vương. Khi ấy bà mới 17 tuổi, kém Gia Thân vương 16 tuổi. Có thể thấy bà cũng khá được lòng phu quân. Năm thứ 59 (1795), ngày 20 tháng 6, Nữu Hỗ Lộc thị lại tiếp tục hạ sinh Miên Khải, con trai thứ ba của Gia Thân vương.
Năm Càn Long thứ 60 (1796), ngày 3 tháng 9 (âm lịch), Càn Long Đế thoái vị làm Thái thượng hoàng. Gia Thân vương được chỉ định làm Hoàng thái tử nối ngôi, lấy năm sau là niên hiệu Gia Khánh nguyên niên. Sử gọi [Gia Khánh Đế].
Năm Gia Khánh nguyên niên (1797), ngày 4 tháng 1 (âm lịch), mệnh Lễ bộ Thượng thư Đức Minh (德明) làm Chính sứ, Lễ bộ Hữu Thị lang Chu Hưng Đại (周兴岱) làm Phó sứ, tuyên sách Hoàng thái tử Trắc phi Nữu Hỗ Lộc thị làm Quý phi, hành Quý phi sách phong lễ.
Sách văn viết:
“ | 椒庭备秩。赞坤极之安贞。桂殿分荣。沛巽申而畀锡冠崇班于翟鞠。壸职兼修襄顺德于珩璜芳型是式。尔皇太子侧妃钮祜禄氏。柔嘉维则。淑慎丕昭。名族钟祥允协瑶筐之吉内朝辅治。庶腾炜管之徽。兹以皇帝嗣位初元册立皇后是用封尔为贵妃。锡以册宝。于戏翊化六宫之长。迓厥繁禧。拜恩九御之先膺兹鸿庆。钦此。朕谨遵奉太上皇帝敕旨举行册封典礼尚其祗承无斁。 . Tiêu đình bị trật. Tán khôn cực chi an trinh. Quế điện phân vinh. Phái tốn thân nhi tí tích quan sùng ban vu địch cúc. Khổn chức kiêm tu tương thuận đức vu hành hoàng phương hình thị thức. Nhĩ Hoàng thái tử Trắc phi Nữu Hỗ Lộc thị. Nhu gia duy tắc. Thục thận phi chiêu. Danh tộc chung tường duẫn hiệp dao khuông chi cát nội triều phụ trị. Thứ đằng vĩ quản chi huy. Tư dĩ Hoàng đế tự vị sơ nguyên sách lập Hoàng hậu thị dụng phong nhĩ vi Quý phi. Tích dĩ sách bảo. Vu hí! dực hóa lục cung chi trường. Nhạ quyết phồn hi. Bái ân cửu ngự chi tiên ưng tư hồng khánh. Khâm thử. Trẫm cẩn tuân phụng Thái thượng hoàng đế sắc chỉ cử hành sách phong điển lễ thượng kỳ chi thừa vô dịch. | ” |
— Sách văn Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị |
Năm Gia Khánh thứ 2 (1797), tháng 3, Hoàng hậu Hỉ Tháp lạp thị qua đời, thụy là [Hiếu Thục Hoàng hậu].
Thái thượng hoàng không muốn mang thời kỳ tang tóc quá sớm, ra lệnh giảm đi tang nghi của Hiếu Thục Hoàng hậu. Vào lúc này, Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị có địa vị cao nhất trong hậu cung, và cũng do ý đồ từ trước của Thái thượng hoàng nên bà được mật chỉ chỉ định làm Kế Hoàng hậu. Nhưng vì lý do có tang Hiếu Thục Hoàng hậu, nên vào ngày 20 tháng 5 (âm lịch) cùng năm, bà được nâng thành Hoàng quý phi và sẽ chính thức trở thành Hoàng hậu ngay khi mãn tang Hiếu Thục Hoàng hậu. Về cơ bản tuy không phải hoàng quý phi nhiếp lục cung sự nhưng địa vị của bà trong lục cung cũng ngang với hoàng hậu. Bà trở thành một trong 3 vị Hoàng quý phi nhà Thanh được tuyên bố tấn phong Hoàng quý phi để kế nhiệm Hoàng hậu, trước đó là Kế Hoàng hậu Na Lạp thị, và sau cùng là Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu.
Ngày 17 tháng 10 (âm lịch) cùng năm, khiển Đại học sĩ Lưu Dung làm Chính sứ, Lễ bộ Tả Thị lang Thiết Bảo (铁保) làm Phó sứ, sách phong tuyên chỉ.
Sách văn rằng:
“ | 全付有家。必资贤于内助。聿绥多福。宜佐治于中闱。矧训政之方长。尤承欢之攸赞。爰循蒇典。式举彝章。尔贵妃钮祜禄氏、华胄钟祥。德门毓粹。早依光于桂邸。敬慎恒昭。嗣领秩于兰宫。温恭愈懋。问安侍膳。时襄温清之文。献茧称丝。夙树俭勤之本。用载扬夫蕙问。镠简升华。伫特晋于椒涂。袆衣作则。兹封尔为皇贵妃。锡之册宝。尔其庥承滋至。弥隆尊养之诚。化裕始基。并着谦和之范。尚徽柔之允叶。体顺垂模。期蕃祉之备膺。含章抚誉。克衍坤元之庆。倍徵泰运之亨。钦哉。 ... Toàn phó hữu gia, tất tư hiền vu nội trợ. Duật tuy đa phúc. Nghi tá trị vu trung vi. Thẩn huấn chính chi phương trường. Vưu thừa hoan chi du tán. Viên tuần siển điển. Thức cử di chương. Nhĩ Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị, hoa trụ chung tường. Đức môn dục túy, tảo y quang vu quế để. Kính thận hằng chiêu, tự lĩnh trật vu lan cung. Ôn cung dũ mậu. Vấn an thị thiện. Thời tương ôn thanh chi văn. Hiến kiển xưng ti. Túc thụ kiệm cần chi bổn. Dụng tái dương phu huệ vấn. Lưu giản thăng hoa. Trữ đặc tấn vu tiêu đồ. Huy y tác tắc. Tư phong nhĩ vi Hoàng quý phi. Tích chi sách bảo. Nhĩ kỳ hưu thừa tư chí. Di long tôn dưỡng chi thành. Hóa dụ thủy cơ. Tịnh trứ khiêm hòa chi phạm. Thượng huy nhu chi duẫn diệp. Thể thuận thùy mô. Kỳ phồn chỉ chi bị ưng. Hàm chương phủ dự. Khắc diễn khôn nguyên chi khánh. Bội trưng thái vận chi hanh. Khâm tai | ” |
— Thượng dụ tấn phong Quý phi làm Hoàng quý phi |
Năm Gia Khánh thứ 4 (1799), ngày 3 tháng 1 (âm lịch), Thái thượng hoàng giá băng. Ngày 18 tháng 4 (âm lịch) cùng năm, Gia Khánh Đế theo di chỉ của Thái thượng hoàng, dụ Nội các chuẩn bị việc tấn lập Hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị làm Hoàng hậu. Do gặp đại tang của Càn Long Đế, lễ sách lập Hoàng hậu theo dự tính của bà bị dời lại sau khi mãn tang Thái thượng hoàng.
Năm Gia Khánh thứ 6 (1801), ngày 15 tháng 4 (âm lịch), lấy Văn Hoa điện Đại học sĩ Đổng Cáo (董诰) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Phổ Cung (普恭) làm Phó sứ, sách tuyên lập làm Hoàng hậu. Chiếu cáo thiên hạ.
Sách văn rằng:
“ | 朕闻图阐坤珍。俪宸枢而着象。景宣舒御。凝宝曜以齐辉。资福耦之克承。表鸿仪而作配。宫庭礼洽。典册光崇。咨尔皇贵妃钮祜禄氏、粹毓名宗。庆贻勋阀。安贞中乎矩度。应地时行。敬顺本于性成。伣天祥定。早从潜邸。扬令德于翚褕。夙奉彝章。佐同功于茧馆。列星妃之贵重。璇掖升华。增彤史之炜煌。黼帷锡祉。宝命笃椿庭之鉴。蕃厘衍椒室之祥。阅三载以届期。正中宫而协吉。兹朕钦遵皇考高宗纯皇帝敕旨。以金册、金宝、立尔为皇后。尔其敬仰恩慈。勉勤内载。秉虔恭于齍敦。肃礼灋于琚裳。布仁惠之芳风。翊昇平之郅治。母仪尊于天下。相须而成。王化基自宫中。端本而善。丕膺显命。懋迓洪禔。钦哉。 ... Trẫm văn đồ xiển khôn trân. Lệ thần xu nhi trứ tượng. Cảnh tuyên thư ngự. Ngưng bảo diệu dĩ tề huy. Tư phúc ngẫu chi khắc thừa. Biểu hồng nghi nhi tác phối. Cung đình lễ hiệp. Điển sách quang sùng. Tư nhĩ Hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị, túy dục danh tông. Khánh di huân phiệt. An trinh trung hồ củ độ. Ứng địa thời hành. Kính thuận bổn vu tính thành. 伣 thiên tường định. Tảo tòng tiềm để. Dương lệnh đức vu huy du. Túc phụng di chương. Tá đồng công vu kiển quán. Liệt tinh phi chi quý trọng. Toàn dịch thăng hoa. Tăng đồng sử chi vĩ hoàng. Phủ duy tích chỉ. Bảo mệnh đốc xuân đình chi giám. Phồn li diễn tiêu thất chi tường. Duyệt tam tái dĩ giới kỳ. Chính trung cung nhi hiệp cát. Tư trẫm khâm tuân Hoàng khảo Cao Tông Thuần hoàng đế sắc chỉ. Dĩ kim sách, kim bảo, lập nhĩ vi Hoàng hậu. Nhĩ kỳ kính ngưỡng ân từ. Miễn cần nội tái. Bỉnh kiền cung vu 齍 đôn. Túc lễ pháp vu cư thường. Bố nhân huệ chi phương phong. Dực thăng bình chi chất trị. Mẫu nghi tôn vu thiên hạ. Tương tu nhi thành. Vương hóa cơ tự cung trung. Đoan bổn nhi thiện. Phi ưng hiển mệnh. Mậu nhạ hồng đề. Khâm tai | ” |
— Sách lập Hoàng quý phi Nữu Hỗ Lộc thị làm Hoàng hậu |
Năm Gia Khánh thứ 10 (1805), ngày 9 tháng 2, giờ Tỵ, hạ sinh Hoàng tứ tử Miên Hân.
Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị nổi tiếng là người đối đãi nhân từ, có học thức, được Càn Long Đế và Gia Khánh Đế hết mực tin tưởng, yêu thương. Luận về gia thế, dòng họ Nữu Hỗ Lộc của bà thuộc hàng danh gia, cao quý hơn Hỉ Tháp Lạp thị của Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu. Sau khi đăng cơ lập tức phong Quý phi, Hỉ Tháp Lạp thị vừa qua đời được nhận Hoàng quý phi kế tục Kế Hoàng hậu, nhập tiềm để liền có thai, cách 2 năm lại hoài thai sinh dục Hoàng tử. Lúc này Gia Khánh Đế tuy đã 45 tuổi, cũng đặc biệt không tính là thường thấy, cho thấy quan hệ giữa bà và Gia Khánh Đế vô cùng tốt đẹp.
Sau khi bà trở thành Hoàng hậu, hiển nhiên gia đình Nữu Hỗ Lộc thị cũng trở nên hiển quý. Cha của Hoàng hậu là Cung A Lạp nhanh chóng lần lượt trọng dụng, bổ làm các chức vụ cao cấp như Tổng binh, Đô thống, Nội đại thần rồi Thượng thư bộ Công, nhận được tước [Thừa Ân hầu; 承恩侯] do là ngoại thích. Năm Gia Khánh thứ 17 (1812), Cung A Lạp trọng bệnh, trước khi chết kịp tấn phong [Nhất đẳng Thừa Ân công; 一等承恩公], hàm Thượng thư Lễ bộ. Em trai của Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị là Hòa Thế Thái lấy Chỉnh Nghi vệ mà xuất sĩ, nhiều lần đảm nhiệm Nội vụ phủ Tổng quản đại thần, Phó Đô thống rồi Tổng binh, sau kế thừa tước Thừa Ân hầu của Cung A Lạp, đảm nhậm Thượng thư Lý Phồn viện. Con trai Hòa Thế Thái là Cảnh Ân (景恩), tức gọi Nữu Hỗ Lộc Hoàng hậu bằng cô mẫu, cưới cháu gái của Phúc Long An thuộc đại gia tộc Sa Tế Phú Sát thị của Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu. Hai em gái của Nữu Hỗ Lộc Hoàng hậu, một người được chỉ định gả cho Bất nhập Bát phân Phụ quốc công Kính Tự (敬敘) thuộc Túc vương phủ, người em út gả cho Duệ Cần Thân vương Đoan Ân (端恩). Cả hai đều gả vào phủ của Thiết mạo tử vương, cho thấy có không ít là nhờ vào vinh quang của Nữu Hỗ Lộc Hoàng hậu. Còn em trai út Cát Luân Thái được lấy làm con thừa tự của chú bà, Viên ngoại lang Minh Thiện (明善), con út của tổ phụ Công Bảo.
Sau khi Hỉ Tháp Lạp Hoàng hậu qua đời, Nữu Hỗ Lộc Hoàng hậu nhận trách nhiệm nuôi dạy Hoàng thứ tử Mân Ninh, con trai của Hỉ Tháp Lạp Hoàng hậu. Vào bấy giờ bà hạ sinh ra Hoàng tứ tử Miên Hân vào năm Gia Khánh thứ 11 (1806), và bà trực tiếp nuôi nấng Mân Ninh cùng với hai con trai của bà là Miên Khải và Miên Hân, tình cảm tốt đẹp.
Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), ngày 25 tháng 7, Gia Khánh Hoàng đế giá băng ở Tị Thử Sơn Trang.
Trước đó, triệu Ngự tiền đại thần, Quân cơ đại thần cùng Nội vụ phủ đại thần, tuyên bố vào năm Gia Khánh thứ 4, đã chọn Trí Thân vương Mân Ninh làm Hoàng thái tử. Do đó, Trí Thân vương Mân Ninh, lúc này dùng thân phận Hoàng thái tử mà đăng cơ, trở thành Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế. Sau khi lên ngôi ít lâu, Đạo Quang Đế đã truyền chỉ dụ tôn Nữu Hỗ Lộc Hoàng hậu làm Hoàng thái hậu, tạm ở Cảnh Nhân cung. Sau đó, ông cho biên ra dụ chỉ ["Tuân theo ý chỉ của Hoàng thái hậu, mà kế thừa đại thống"], do vậy từng có nhận định Nữu Hỗ Lộc thị tham gia quyết định việc chọn Đạo Quang Đế kế vị, bà được xem là vị hoàng hậu kì lạ nhất Thanh triều khi ủng hộ con trai của vị hoàng hậu trước đó lên ngôi. Cũng nhờ đó mà Đạo Quang đế hết lòng tôn kính bà như mẹ đẻ
Ngày 2 tháng 12 cùng năm, Đạo Quang Đế suất chư Vương, Bối lặc, Văn võ đại thần, sách dâng tôn huy hiệu Cung Từ Hoàng thái hậu Hiếu Hòa Duệ Hoàng Hậu (恭慈皇太后). Sách văn viết rằng:
“ | 瑶图席序。崇亲扬琼册之华。宝篆镌函。锡类阐璇闱之实。况乎肃雍表度。佐宵旰以分劳。慈俭观型。罄垓埏而戴德。鸿名允协。殷礼肇称。钦惟圣母皇太后。道赞乾行。化彰坤顺。华胄甄符于令范。系出元勋。中宫媲美于前徽。班居贵秩。当皇考寝门之逮事。正天家福耦之储祥。京室贻庥。共承欢于兰膳。掖庭示矩。遂正位于椒涂。仁恩流樛木之音。螽羽交辉仙牒。厚德启荆枝之茂。雁行并列亲藩。属以凉德之膺图。益赖春晖之垂荫。敢稽茂典。聿晋崇称。谨告天。地。宗庙。社稷。率诸王贝勒文武群臣。恭奉册宝。上尊号曰恭慈皇太后。伏愿洪祺懋迓。蕃祉诞膺。逢吉康强。协禹畴之五福。多益单厚。媲周雅之九如。仰托恩慈。长隆尊养。臣诚欢诚忭。稽首顿首。谨言。 ... Dao đồ tịch tự. Sùng thân dương quỳnh sách chi hoa. Bảo triện tuyên hàm. Tích loại xiển toàn vi chi thật. Huống hồ túc ung biểu độ. Tá tiêu cán dĩ phân lao. Từ kiệm quan hình. Khánh cai duyên nhi đái đức. Hồng danh duẫn hiệp. Ân lễ triệu xưng. Khâm duy Thánh mẫu Hoàng thái hậu. Đạo tán càn hành. Hóa chương khôn thuận. Hoa trụ chân phù vu lệnh phạm. Hệ xuất nguyên huân. Trung cung bễ mỹ vu tiền huy. Ban cư quý trật. Đương hoàng khảo tẩm môn chi đãi sự. Chính thiên gia phúc ngẫu chi trữ tường. Kinh thất di hưu. Cộng thừa hoan vu lan thiện. Dịch đình kỳ củ. Toại chính vị vu tiêu đồ. Nhân ân lưu cù mộc chi âm. Chung vũ giao huy tiên điệp. Hậu đức khải kinh chi chi mậu. Nhạn hành tịnh liệt thân phiên. Chúc dĩ lương đức chi ưng đồ. Ích lại xuân huy chi thùy ấm. Cảm kê mậu điển. Duật tấn sùng xưng. Cẩn cáo Thiên địa, Tông miếu, Xã tắc, suất chư Vương, Bối lặc, Văn võ quần thần. Cung phụng sách bảo, thượng tôn hào viết: Cung Từ Hoàng thái hậu Hiếu Hòa Duệ Hoàng Hậu. Phục nguyện hồng kỳ mậu nhạ. Phồn chỉ đản ưng. Phùng cát khang cường. Hiệp vũ trù chi ngũ phúc. Đa ích đan hậu. Bễ chu nhã chi cửu như. Ngưỡng thác ân từ. Trường long tôn dưỡng. Thần thành hoan thành biện. Kê thủ đốn thủ. Cẩn ngôn. | ” |
— Tôn sách Cung Từ Hoàng thái hậu Hiếu Hòa Duệ Hoàng Hậu |
Sau đó, Hoàng đế lại dụ Lễ bộ sửa sang, dâng Thọ Khang cung (壽康宮) cho Thái hậu. Lại chọn Kỷ Xuân viên trong Viên Minh Viên dâng cho bà mỗi khi tránh nóng, là thập phần long trọng phụng dưỡng. Hoàng thái hậu tuy chỉ ở nội cung, song đối nội đối ngoại vẫn có ảnh hưởng nhất định. Về phương diện khác, Đạo Quang Đế đối vị này mẹ kế cũng là tương đương hiếu thuận, có thể thấy vào chỉ dụ của ông: “Trẫm tự Thánh mẫu Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu ngự thượng tới nay, thâm hà đại sự Hoàng thái hậu long ân phúc tí.”. Theo Thật lục ghi chép, Đạo Quang Đế cũng hay mỗi ngày đều tự đến Thọ Khang cung của bà vấn an. Như nhật ký của Ông Đồng Hòa ghi lại, vào thời Đồng Trị có nghe Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn kể lại việc Tuyên Tông Đạo Quang năm xưa, đều tự hướng Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu vấn an không ngừng.
Năm Đạo Quang thứ 2 (1822), 27 tháng 11, nhân dịp sách lập Hiếu Thận Thành Hoàng hậu, dâng thêm huy hiệu Khang Dự (康豫). Năm thứ 8 (1828), 8 tháng 11, nhân bình định Tân Cương, dâng thêm 2 chữ An Thành (安成). Năm thứ 14 (1834), 21 tháng 10, nhân dịp sách lập Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu, dâng thêm 2 chữ Trang Huệ (莊惠). Năm thứ 15 (1835), 9 tháng 10, nhân dịp chúc mừng Hoàng thái hậu Vạn thọ 60 tuổi, dâng thêm 2 chữ Thọ Hi (壽禧). Năm thứ 25 (1845), 6 tháng 10, nhân dịp Vạn thọ 70 tuổi, dâng thêm 2 chữ Sùng Kì (崇祺). Như vậy, huy hiệu đầy đủ qua các năm là: Cung Từ Khang Dự An Thành Trang Huệ Thọ Hi Sùng Kì Hoàng thái hậu (恭慈康豫安成莊惠壽禧崇祺皇太后).
Đạo Quang năm thứ 29 (1849), ngày 8 tháng 12 (âm lịch), Cung Từ Thái hậu sau khi từ Kỷ Xuân viên về, cảm thấy không khỏe. Đạo Quang Đế nghe tin vội vàng đến Thọ Khang cung, hầu thuốc không lơ là. Ngày 11 tháng 12 (tức 23 tháng 1 dương lịch năm 1850), giờ Thân, Cung Từ Thái hậu băng hà, thọ 74 tuổi.
Thượng dụ thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng thái hậu là: Hiếu Hòa Cung Từ Khang Dự An Thành Ứng Thiên Hi Thánh Duệ Hoàng hậu (孝和恭慈康豫安成應天熙聖睿皇后).
Đạo Quang Đế được ghi nhận cực kỳ đau khổ, đấm ngực giậm chân. Trong đại tang lễ, Đạo Quang Đế đích thân tận hiếu đưa tang, đày đọa thân thể cùng cực. Vào lúc này, các con bà đều đã qua đời, chỉ còn Đạo Quang Đế là con nuôi ở bên chịu tang mà thôi. Khi đó Đạo Quang Đế cũng đã 68 tuổi, thân thể sớm suy yếu, mà quyết liệt ở bên chịu tang Thái hậu cũng sinh bệnh nặng. Kim quan của Thái hậu di trí sang Kỉ Xuân viên, tạm quàn ở Nghênh Huy điện (迎晖殿), còn Đạo Quang Đế phục tang, tạm ở Thận Đức đường (慎德堂). Quả nhiên sau đó 1 tháng, Đạo Quang Đế cũng qua đời, trong cung cùng lúc 2 đại tang nghi. Kế vị là Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế.
Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), tháng 3, Hàm Phong Đế cử hành đại lễ dâng sách thụy cho Đại Hành Hoàng thái hậu. Sách thụy rằng:
“ | 道协坤元。树壸仪而著范。化均羲曜。襄祖烈以垂模。严对越之鸿名。虔伸玉策。仰肃雍之懿行。彩焕璆函。钦惟皇祖妣大行皇太后。华阀钟祥。椒涂正位。兰殿表安贞之度。璇闱式敦厚之型。含章而德懋徽柔。体顺而仪昭光大。躬节俭以彰令则。深宫成浣濯之风。本恺悌以布鸿庥。寰海溥仁慈之化。回疆厎绩。胪欢特晋乎徽称。寿<?宀禹>延厘。介福叠膺夫庆典。惟令德常绵茀禄。秩祜无疆。宜慈躬益懋升恒。扬庥未艾。何升遐之忽遘。竟攀恸以难追。率土均哀。重闱永隔。缅思芳矩。仪范如亲。仰溯遗规。显扬莫罄。用推原于百行。孝思徵不匮之忱。更阐实于千秋。和气乃致祥之本。集佥言而咸翕。垂万<?衤异>以无穷。谨奉册宝。上尊谥。曰孝和恭慈康豫安成应天熙圣睿皇后。于戏。镂赤文而衍庆。宜特隆冠古之声。镌华玉而扬芬。庶稍展追崇之悃。伏冀慈灵默佑。祝贶式凭。宝箓常新。等球图而并重。隆名罔极。与日月以齐昭。祗备崇仪。茂昌景祚。谨言。 ... Đạo hiệp khôn nguyên. Thụ khổn nghi nhi trứ phạm. Hóa quân hi diệu. Tương tổ liệt dĩ thùy mô. Nghiêm đối việt chi hồng danh. Kiền thân ngọc sách. Ngưỡng túc ung chi ý hành. Thải hoán cầu hàm. Khâm duy Hoàng tổ tỉ Đại Hành hoàng thái hậu. Hoa phiệt chung tường, tiêu đồ chính vị. Lan điện biểu an trinh chi độ. Toàn vi thức đôn hậu chi hình. Hàm chương nhi đức mậu huy nhu. Thể thuận nhi nghi chiêu quang đại. Cung tiết kiệm dĩ chương lệnh tắc. Thâm cung thành hoán trạc chi phong. Bổn khải đễ dĩ bố hồng hưu. Hoàn hải phổ nhân từ chi hóa. Hồi cương chỉ tích. Lư hoan đặc tấn hồ huy xưng. Thọ <? Miên vũ > duyên li. Giới phúc điệp ưng phu khánh điển. Duy lệnh đức thường miên phất lộc. Trật hỗ vô cương. Nghi từ cung ích mậu thăng hằng. Dương hưu vị ngải. Hà thăng hà chi hốt cấu. Cánh phàn đỗng dĩ nan truy. Suất thổ quân ai. Trọng vi vĩnh cách. Miến tư phương củ. Nghi phạm như thân. Ngưỡng tố di quy. Hiển dương mạc khánh. Dụng thôi nguyên vu bách hành. Hiếu tư trưng bất quỹ chi thầm. Canh xiển thật vu thiên thu. Hòa khí nãi trí tường chi bổn. Tập thiêm ngôn nhi hàm hấp. Thùy vạn <?衤 dị > dĩ vô cùng. Cẩn phụng sách bảo, thượng tôn thụy viết: Hiếu Hòa Cung Từ Khang Dự An Thành Ứng Thiên Hi Thánh Duệ Hoàng hậu. Vu hí! Lũ xích văn nhi diễn khánh. Nghi đặc long quan cổ chi thanh. Tuyên hoa ngọc nhi dương phân. Thứ sảo triển truy sùng chi khổn. Phục ký từ linh mặc hữu. Chúc huống thức bằng. Bảo lục thường tân. Đẳng cầu đồ nhi tịnh trọng. Long danh võng cực. Dữ nhật nguyệt dĩ tề chiêu. Chi bị sùng nghi. Mậu xương cảnh tộ. Cẩn ngôn! | ” |
— Sách thụy Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu |
Cùng năm ấy, ngày 22 tháng 9, tổ chức đại lễ sách thụy cho Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu, cùng Hiếu Mục Thành Hoàng hậu, Hiếu Thận Thành Hoàng hậu và Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu. Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu được dâng thêm hai chữ [Khâm Thuận; 欽順], toàn xưng là Hiếu Hòa Cung Từ Khang Dự An Thành Khâm Thuận Ứng Thiên Hi Thánh Duệ Hoàng hậu (孝和恭慈康豫安成欽順應天熙聖睿皇后).
Năm Hàm Phong nguyên niên (1851), Hàm Phong Đế quyết định xây dựng một tòa mộ riêng cho tổ mẫu, gọi là Xương Tây lăng (昌西陵), thuộc khu vực Thanh Tây lăng, cách một quãng phía Tây Nam cách Xương lăng, nơi mộ phần của Gia Khánh Đế và Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu. Năm Hàm Phong thứ 2 (1852), lăng hoàn thành. Năm Hàm Phong thứ 3 (1853), ngày 26 tháng 2, kim quan của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu nhập Xương Tây lăng.
Các đời Hàm Phong, Đồng Trị rồi Quang Tự dâng thụy hiệu cho bà, đầy đủ là: Hiếu Hòa Cung Từ Khang Dự An Thành Khâm Thuận Nhân Chính Ứng Thiên Hi Thánh Duệ Hoàng hậu (孝和恭慈康豫安成欽順仁正應天熙聖睿皇后).
Năm | Phim truyền hình | Diễn viên | Nhân vật |
1988 | Mãn Thanh thập tam hoàng triều | Phan Tiển Di | Nữu Hỗ Lộc Hoàng hậu 鈕祜祿皇后 |
2004 | Thâm cung nội chiến | Trần Tú Châu | Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc Ỷ Tuyết 皇后 鈕祜祿•绮雪 |
2006 | Đại Thanh hậu cung | Phan Hồng | Cung Từ Hoàng Thái hậu 恭慈皇太后 |
2011 | Vạn phụng chi vương | Huỳnh Thục Nghi | Cung Từ hoàng thái hậu Nữu Hỗ Lộc Trát Lạp Phân 恭慈皇太后 鈕祜祿•扎拉芬 |
2017 | Thiên mệnh | Lý Thi Hoa | Hoàng Quý phi Nữu Hỗ Lộc Linh Nhi 皇贵妃 鈕祜祿·鈴兒 |
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.