Thiện nhượng (Tiếng Trung: 禪讓) có nghĩa là nhường lại ngôi vị, được ghép bởi các cụm từ Thiện vị và Nhượng vị, là một phương thức thay đổi quyền thống trị của những triều đại trong lịch sử Trung Quốc.
Thời tiền sử, khi sản xuất còn lạc hậu, xã hội nguyên thủy phổ biến ở các bộ lạc bởi khả năng có thể tập hợp nhân lực trong sản xuất cũng như chống lại các tai họa đến từ thiên nhiên, muông thú và thậm chí cả con người (cụ thể là các liên minh bộ lạc khác). Xuất phát bởi nhu cầu thực tế đó, dần dần hình thành thể thức bầu cử để lựa chọn một cá nhân có năng lực giữ vai trò thủ lĩnh với mục đích lãnh đạo các thành viên bộ lạc cùng chung sức sản xuất, tự vệ cũng như phân phối công sản theo bình quân sinh hoạt. Theo thể thức này, định kỳ các thành viên bộ lạc sẽ họp bàn rồi bầu chọn một cá nhân làm thủ lĩnh liên minh, đa số sẽ quyết định ai có khả năng nhất, sau đó người thủ lĩnh sẽ tự động nhường lại vị trí của mình cho kẻ khác khi họ không còn đủ sức để gánh vác trọng trách nữa.
Sang thời Tam Hoàng Ngũ Đế, trong các liên minh bộ lạc đã phôi thai hiện tượng truyền ngôi vị thủ lĩnh cho con đẻ hoặc các cháu trong dòng họ, bất kể nội hay ngoại, không phân biệt nam nữ, miễn là có tài sẽ được trọng dụng. Nhiều thư tịch cổ đã ghi nhận việc chế độ Quân chủ thế tập ở Trung Quốc xuất hiện từ thuở khai sơ, đó là liên minh bộ lạc như: Phục Hy thập lục thị, Viêm Đế Khôi Ngỗi thị, Viêm Đế Thần Nông thị, Hoàng Đế Hiên Viên thị... Cũng từ đó mà mỗi lần thay đổi triều đại lại xảy ra xung đột đổ máu, vì những quần thần không phục thủ lĩnh mới của thị tộc khác, nổi trội hơn cả là cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu. Bởi Nghiêu Thuấn phá vỡ thông lệ này nên dân tộc Trung Hoa tự hào về thời đại hoàng kim của họ với điều đáng quý là việc nhường ngôi cho người hiền.
Cụm từ Nghiêu Thuấn thiện nhượng là thuật ngữ ca ngợi hành động truyền ngôi cho người hiền của hai vị quân chủ Đường Nghiêu và Ngu Thuấn khi họ đang tại vị, đức hạnh của họ được lý tưởng thành điển hình tốt đẹp nhất, làm khuôn mẫu cho một xã hội thịnh trị trong văn hóa Trung Quốc. Nghiêu khi tuổi cao sức yếu đã không truyền ngôi cho con trai là Đan Chu mà tìm đến Thuấn, một nhân vật tài giỏi và hiếu thảo để thay thế mình. Trước hết, Nghiêu thử thách Thuấn bằng việc gả hai con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho rồi phong làm thủ lĩnh tộc Hữu Ngu. Vượt qua nhiều phen hoạn nạn phát sinh từ nội bộ gia đình, đặc biệt là những âm mưu sát hại tàn nhẫn của cha và em khác mẹ để chiếm đoạt tài sản, nhưng phong thái hiếu kính của Thuấn vẫn không thay đổi. Nghiêu tiếp tục giao cho Thuấn nhiều chức quan trong mọi lĩnh vực: Tư đồ, tổng quản nội chính, ngoại giao, nông nghiệp, luật pháp, giáo dục... Ở bất kỳ cương vị nào, Thuấn đều hoàn thành tốt nhiệm vụ, lúc đó Nghiêu mới quyết định nhường ngôi. Đến lượt mình, Đế Thuấn cũng bỏ qua con trai là Thương Quân mà cân nhắc rồi nhường ngôi cho người lập công trị thủy là Hạ Vũ. Khác với Nghiêu, Thuấn không cần thử thách bởi ông đã chiêm nghiệm năng lực của Vũ qua việc làm của người này. Thời đó, Đại hồng thủy gây ra tai họa lũ lụt khủng khiếp, dân chúng không có chỗ ở yên ổn phải dịch chuyển nay đây mai đó rất khổ sở, cha Vũ là Cổn từng trị thủy thất bại bị Nghiêu tử hình, nhưng Vũ vẫn nhịn nhục tiếp tục công việc của cha mà không hề oán thán.
Khi công việc hoàn tất, Thuấn lập tức thoái vị. Khi Vũ còn tại vị, từng chỉ định người nối ngôi mình là Cao Dao, nhưng Cao Dao lại mất trước Vũ. Trước khi Vũ băng hà đã bàn giao quyền hành cho con Cao Dao là Bá Ích, Ích đứng ra chấp chính lo liệu quốc tang cho Vũ đúng ba năm rồi nhường lại ngai vàng cho con Vũ là Khải. Có thuyết khác lại nói, Ích định giành ngôi với Khải và bị Khải giết chết, Khải tức vị lập ra nhà Hạ, chế độ thế tập nhờ đó được tái lập. Trong quá trình chuyển giao quyền lực chính trị, Hạ Vũ bề ngoài truyền ngôi cho Ích như quy định "chọn người hiền tài" nhiều đời trước, nhưng thực tế lại giúp con mình là Khải tăng cường lực lượng, đợi thời cơ để đánh bại Ích.
Vua Vũ đăng cơ luận công ban thưởng thực hiện phong tước kiến địa, hình thành nên một vạn chư hầu, các nước này thôn tính lẫn nhau, đến đời Thương còn hơn ba ngàn nước, qua Tây Chu còn trên tám trăm nước. Sang thời Xuân Thu, các nước chư hầu nổi dậy lấn lướt chính quyền trung ương gây gổ sát phạt liên miên, tranh hùng tranh bá, xưng vương xưng đế tiếm hiệu Chu thiên tử khiến xã hội càng rối ren loạn lạc, chẳng ai thiết gì đến nhân nghĩa nữa, do đó xuất hiện nhiều quan điểm lỗi lạc tìm cách sửa đổi mong cứu vớt thiên hạ, trong đó có Nho giáo của Khổng Tử. Huyền thoại 堯天舜日 Nghiêu thiên Thuấn nhật ("ngày Nghiêu tháng Thuấn") được xây dựng dựa trên cơ sở những truyền thuyết dân gian để tôn vinh những bậc thánh chúa đời xưa lấy đạo chí công để trị quốc, chứ không lấy thiên hạ làm của riêng mình, ông cố ý xây dựng hình tượng "Thái bình thánh đại" làm khuôn mẫu Nho giáo gọi là 祖述堯舜,憲章文武 tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn Võ ("noi gương vua Nghiêu vua Thuấn, bắt chước vua Văn vua Võ", vua Văn vua Võ là 2 vị vua đã gây dựng nên cơ nghiệp nhà Chu).
Từ Nghiêu Thuấn đến thời Xuân Thu cách xa như vậy nên việc tô điểm cho Nghiêu Thuấn thế nào mà chẳng được, Khổng Tử tạo ra huyền thoại này để chống đỡ tư tưởng chính trị của mình. Theo tư tưởng Triết học đời xưa thì "Kinh thư" là thư tịch cổ nhất nhắc đến chế độ thiện nhượng, nhưng theo các học giả ngày nay phân tích thì sách này do các Nho gia đời Hán ngụy tạo, tài liệu đầu tiên đề cập về Nghiêu Thuấn là "Luận ngữ". Trong đó thiên 20 "Nghiêu viết" ghi rõ những lời của Nghiêu khuyên Thuấn giữ đạo trung chính lúc sắp nhường ngôi, và Thuấn cũng khuyên Vũ như vậy trước khi thoái vị. Theo lẽ thường thì khi Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, thiên hạ sẽ là của Thuấn. Nhưng theo tông chỉ của Nho giáo thì thiên hạ là của trời, Nghiêu chỉ nhường quyền cai trị thiên hạ cho Thuấn. Nếu trời đã không cho Thuấn thì Nghiêu có nhường cũng không được, vì thiên hạ thuận theo Thuấn nên Thuấn mới được thiên hạ. Trên thực tế, Cổ Tẩu và Tượng không hề làm hại Thuấn, mà do Đào Ứng đặt giả thuyết hỏi Mạnh Tử rằng bậc thánh quân nếu gặp phải việc lưỡng nan như vậy thì sẽ xử trí kiểu gì để toàn vẹn. Đến đời Nhà Nguyên, Quách Cư Nghiệp viết sách "Nhị thập tứ hiếu" đã dựa vào cơ sở trên xếp vua Thuấn thành tấm gương hiếu thảo đầu tiên để răn dạy lớp hậu sinh, đây là trường hợp vô tiền khoáng hậu hi hữu trong lịch sử.
Cũng theo truyền thuyết trên, trước khi gặp Thuấn, Nghiêu đã hội kiến quần thần để bàn bạc việc nhường ngôi nhưng chưa thấy ai toại tâm xứng ý. Tiếp theo, Nghiêu từng đến gặp các cao nhân Hứa Do và Tử Châu Chi Phụ để đặt vấn đề nhường ngôi nhưng hai người đó đều thoái thác. Sau này, Ngu Thuấn tìm lại Tử Châu Chi Phụ nhưng ông này vẫn kiên quyết không đồng ý, nhà vua bèn lựa chọn một ẩn sĩ khác là Thiện Quyển để bày tỏ ý định nhưng cũng bị khước từ. Điều đó cho thấy, ngay cả giai đoạn cực trị Nghiêu Thuấn mà vẫn có những người thích cuộc sống ẩn dật không màng thế sự, đâu cứ gì phải thời đại nhiễu nhương lộn xộn. Thực ra, trước Nghiêu Thuấn, Sơn hải kinh cũng từng nhắc tới việc nhường ngôi của Đế Du Võng cho Hiên Viên Hoàng Đế rồi ẩn cư hành y nhưng không phải tự nguyện mà do hoàn cảnh bắt buộc tạo ra, bởi lẽ đó nên Khổng Tử không đề cao vị vua này.
Sau khi định hình học thuyết, Khổng Tử chu du liệt quốc truyền bá tư tưởng của mình, nhưng chư hầu không nghe. Ngài hiểu rằng muốn thay đổi thế cuộc phải có quyền lực, lời nói dẫu hay cũng vô dụng, nên quyết định quay về nước Lỗ, đem kiến thức ghi chép lại, hy vọng hậu thế sẽ có người hiểu và thực hiện đường lối đó. Tư tưởng chính trị của Khổng Tử được các thế hệ học trò như: Tăng Tử, Tử Tư Tử, Mạnh Tử... các đời nối tiếp nhau truyền bá suốt thời Chiến Quốc nhưng hiệu quả đạt được không cao, bởi cường độ chiến tranh trong giai đoạn này còn khốc liệt hơn cả thời Xuân Thu.
Nhìn lại lịch sử, ta có thể thấy ngay năm hình thức để một bậc đế vương đăng cơ tức vị trong cung cấm, đó là: Thiện vị, Hoàn vị, Kế vị, Tôn vị và Đoạt vị. Thiện vị được phân thành Nội thiện và Ngoại thiện, quân chủ đương nhiệm sẽ chủ động nhường ngôi cho kẻ khác khi họ còn đang tại vị, với hình thức cao nhất là tự nguyện chuyển giao quyền lực cho người hiền. Chế độ này có đặc điểm trái ngược hẳn với việc hành thích đương kim hoàng thượng hoặc công khai tổ chức đảo chính để giành lấy giang sơn gọi là Đoạt vị, khác với Kế vị ở chỗ người tiếp nhiệm sẽ tự động thế chỗ người tiền nhiệm đã qua đời, khác với Tôn vị là trường hợp quân chủ băng hà chưa kịp chọn người thay ngôi nên quần thần hoặc vương tôn quý tộc phải thương nghị đề cử vua mới, khác với Hoàn vị ở đặc điểm ngôi vua vốn của vị vua trước sau khi đã thực hiện một trong mấy hình thức trên nhưng bởi một lý do nào đó ngôi vị được trả lại cho chủ cũ.
Trong chế độ Thế tập, có một điều luật bất di bất dịch là vua cũ băng hà thì mới được lập vua khác, do đó có nhiều trường hợp nhà vua bị trục xuất khỏi triều đình nhưng họ vẫn giữ ngôi trên danh nghĩa tuy công việc chính sự đều do quyền thần khống chế. Điển hình như: Hạ Thái Khang, Chu Lệ vương, Sái Ai hầu, Lỗ Chiêu công... Thời Xuân Thu, Tống Tương công bị Sở Thành vương giam hãm, người nước Tống lập mưu tạm thời đưa công tử Mục Di lên ngôi để giữ nước, khi nước Sở phóng thích Tương Công thì Mục Di lập tức thoái vị. Lại có trường hợp Trịnh Thành công bị bắt giữ ở nước Tấn khiến người nước Trịnh phải giả vờ lập thế tử Khôn Ngoan làm quân chủ mới, vua Tấn thấy vậy bèn thả vua Trịnh ra, khi Thành Công về nước thì Khôn Ngoan lại hoàn vị cho cha. Thời Chiến Quốc, Sở Hoài Vương cũng gặp phải hoàn cảnh tương tự ở bên Tần quốc, nhưng dù dân nước Sở đã lập Sở Khoảnh Tương Vương nhưng vua Tần nhất định không chịu thả, điều đó khiến Hoài Vương phải ôm hận mà chết nơi đất khách quê người. Bởi bó buộc vì nguyên tắc đó mà dẫn đến nhiều tấn thảm kịch như con giết cha, chú giết cháu, anh em giết nhau để đoạt lấy quyền lực. Ở chế độ Thiện nhượng thì vấn đề này hoàn toàn ngược lại, có điều việc tự nguyện nhường ngôi hầu như không tồn tại trên thực tế mà chỉ mang tính tượng trưng.
Ngoại thiện nghĩa là nhường ngôi cho người ngoài dòng tộc, nhưng đây hoàn toàn chỉ là chiêu bài được các quyền thần khác họ sử dụng để hợp lý việc kế thừa ngôi vị trên danh nghĩa theo truyền thống Nho giáo, những trường hợp ngoại thiện thất bại sử sách đều chép là Soán vị. Ví như: Vương Mãng soán Hán, Hoàn Huyền soán Tấn, Hầu Cảnh soán Lương... Vị quân chủ thoái nhiệm thường bị:
Nội thiện nghĩa là nhường ngôi cho con ruột, cháu nội (trường hợp con trai chết sớm), cháu gọi bằng chú bác ruột (trường hợp toàn con gái), anh em ruột (trường hợp không có con), chú bác ruột (trường hợp không có anh em ruột và con cháu ruột) hoặc cùng lắm là người trong họ (khi ruột thịt trực hệ không còn ai), vị quân chủ từ nhiệm thường được tôn làm Thái thượng hoàng (ở phiên thuộc hay chư hầu chức vụ này gọi là Thái thượng vương). Khi Thái thượng hoàng vẫn còn mà vị quân chủ đương nhiệm tiếp tục nhường ngôi cho người khác, thì Thái thượng hoàng được tôn là Vô thượng hoàng (ở phiên thuộc hay chư hầu không tồn tại danh vị Vô thượng vương mà chỉ phân biệt bằng cách gọi Thái thượng vương và Thượng vương điện hạ), sử sách chép là Tốn vị. Theo thống kê từ những số liệu trong các thư tịch cổ thì có đến già nửa các trường hợp nội thiện có kết cục không khác gì ngoại thiện, vị quân chủ thoái nhiệm thường có bốn nguyên nhân:
Đầu thời Xuân Thu, Thục Vọng Đế nhường ngôi Thục Tùng Đế. Cuối thời Chiến Quốc, Yên vương Khoái nhường ngôi tướng quốc Tử Chi. Cả hai trường hợp này chung cuộc người thoái nhiệm đều táng mệnh thân vong, họ học tập Nghiêu Thuấn tự nguyện nhường ngôi nhưng cái kết của họ lại quá bi đát.
Tần Thủy Hoàng diệt sáu nước thống nhất thiên hạ, thực hiện đường lối Pháp gia, tiến hành đốt sách giết học trò khiến mọi học thuyết của Bách gia chư tử gần như bị triệt thoái hoàn toàn. Đến khi nhà Hán nổi lên, việc trung hưng Nho giáo bắt đầu phôi thai. Bấy giờ tư tưởng trung quân ái quốc của Khổng Tử được quảng bá rộng rãi, thấm nhuần trong đạo đức quần chúng, do kinh nghiệm thực tế từ hai trường hợp nhường ngôi thật sự thời Xuân Thu Chiến Quốc nên trong thâm cung hễ xảy ra cuộc thay đổi triều đại cho người khác họ đều được các quyền thần dàn xếp, ép thiên tử xuống chiếu nhường ngôi cho mình nhằm hợp thức hóa hoàng vị.
Là nơi khởi nguyên của Nho giáo, chế độ Thiện nhượng phát triển mạnh mẽ nhất bên Trung Quốc. Trừ những lần biến động chính trị ngoài dân gian như: chư hầu quật khởi, ngoại bang xâm lược, nông dân tạo phản, quân phiệt cát cứ, phiên trấn chuyên quyền, v.v. Những thế lực này sát phạt lẫn nhau kịch liệt, cuối cùng còn lại ai thì người đó trở thành "chân mệnh thiên tử", được phái Nho gia tôn vinh bởi đi đúng chính đạo nên mới được nước, sử sách dùng chữ "diệt" (滅) để hiển thị cho việc thay đổi triều đại như vậy. Ví dụ: Thương diệt Hạ, Chu diệt Thương, Tần diệt Chu, Tần diệt lục quốc, Sở diệt Tần, Hán diệt Tây Sở, Hán diệt Tân, v.v.
Tất cả các cuộc thay ngôi đổi chủ ngoài dòng tộc trong cung cấm ở quốc gia này (bao gồm cả Nam Chiếu và Đại Lý) đều được thực thi bởi chế độ Thiện nhượng, cụ thể là:
Còn về nội thiện, các cuộc nhường ngôi cũng đều có nguyên do ẩn chứa sâu xa, không phải cuộc nội thiện nào cũng diễn ra suôn sẻ, có nhiều cuộc cũng đổ máu và sát phạt hoặc cách thức ép buộc cũng chẳng kém gì ngoại thiện.
Chế độ thiện nhượng có ảnh hưởng trực tiếp đến ba quốc gia đồng văn Hán ngữ là: Nhật Bản, Việt Nam và Triều Tiên. Trước khi văn hóa phương Tây du nhập, tất cả những học thuật và tư tưởng của ba quốc gia trên đều bị Nho giáo thống soái mà không có một trường phái khác đồng hành, hễ Nho giáo ở Trung Nguyên biến thiên ra sao thì ảnh hưởng của nó ở bên ngoài đều phải theo như thế:
Ở Nhật Bản do chỉ tồn tại một triều đại duy nhất từ thuở khai quốc đến nay nên không có ngoại thiện, tất cả các cuộc nhường ngôi đều diễn ra trong nội bộ vương thất, trừ vương quốc Lưu Cầu lúc đó chưa phải lãnh thổ Nhật Bản có một cuộc ngoại thiện giữa vương triều Thuấn Thiên và vương triều Anh Tổ.
Tại Việt Nam, sự thay đổi triều đại đều rất êm thấm, không phải thiện vị thì cũng tôn vị, trừ ba triều đại có được giang sơn nhờ vũ lực là Nhà Đinh, Nhà Nguyễn Tây Sơn và Nhà Nguyễn. Dưới đây là các cuộc ngoại thiện:
Còn nội thiện đã quy định thành một chế độ rõ rệt từ thời Nhà Trần, các triều đại sau cứ theo đó mà bắt chước. Tuy nhiên, các trường hợp nội thiện sau này đều không suôn sẻ, nếu không phải do giải pháp tình thế bởi chiến tranh loạn lạc thì cũng bị gượng gạo vì quyền thần ép buộc mà ra.
Trên bán đảo Triều Tiên có duy nhất một trường hợp ngoại thiện giữa nhà Cao Ly và nhà Triều Tiên, tất cả các trường hợp nhường ngôi còn lại đều là nội thiện.
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Thiện nhượng, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.