Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Việt Nam là chức vụ đứng đầu Tòa án nhân dân Tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước.
Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao không nhất thiết phải là Đại biểu Quốc hội. Không có quy định pháp luật Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tuy nhiên trên thực tế Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ở Việt Nam thường là một Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, và từ năm 2011 đến nay thì được cơ cấu là một Bí thư Trung ương Đảng. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam đương nhiệm là ông Nguyễn Hòa Bình, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh Quảng Ngãi, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII.
Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam | |
---|---|
Tòa án nhân dân Tối cao | |
Chức vụ | Chánh án (thông dụng) |
Bổ nhiệm bởi | Quốc hội Việt Nam (theo sự đề cử của Chủ tịch nước) |
Nhiệm kỳ | 5 năm |
Người đầu tiên nhậm chức | Trần Công Tường |
Thành lập | tháng 5 năm 1958 |
Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Các quyền quyết định
Các quyền trình:
Các quyền tổ chức:
Trách nhiệm:
Các quyền chỉ đạo:
Ngoài ra, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao còn có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định:
Trong giai đoạn này hệ thống tư pháp của Việt Nam vẫn mang tính chất thiên về quân sự, không thiết lập chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Ngay sau khi thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hệ thống Tòa án có hai loại: Toà án Quân sự với nhiệm vụ xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập và Tòa án đặc biệt xét xử những nhân viên của các Uỷ ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ do ban Thanh tra truy tố. Chủ tịch Chính phủ lâm thời làm Chánh án Tòa án đặc biệt và Bộ trưởng Tư pháp làm Hội thẩm.
Trong thời kỳ sau từ những năm 1946-1950 hệ thống tư pháp thiết lập 3 hệ thống tòa án: Tòa án thường, Tòa án binh và Tòa án Quân sự. Tòa án thường được phân theo cấp thứ tự chứ không phân theo khu vực địa hạt, Tòa sơ cấp, Tòa đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm.
Năm 1950 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cải cách hệ thống tư pháp, trong giai đoạn từ 1950-1958 đã thiết lập hệ thống tòa án nhân dân các cấp, nhưng chưa thiết lập tòa án nhân dân tối cao.
Sau khi cải cách hệ thống tư pháp năm 1959 Tòa án nhân dân tối cao được thành lập với người đứng đầu là Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao và chính thức được đưa vào Hiến pháp năm 1959.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyền hạn giải quyết các vấn đề quan trọng của Tòa án nhân dân Tối cao. Tới năm 1980 thì quyền hạn được tăng lên như hiện nay.
Khung màu xám chỉ người giữ chức vụ Quyền Chánh án Tòa án Tối cao.
Thứ tự | Tên | Nhiệm kỳ | Đảng phái |
Trần Công Tường (Quyền Chánh án Tối cao) | 5/1958 - 5/1959 | Đảng Lao động Việt Nam | |
1 | Phạm Văn Bạch | 5/1959 - 7/1976 | Đảng Lao động Việt Nam |
Thứ tự | Tên | Nhiệm kỳ | Đảng phái |
1 | Phạm Văn Bạch | 7/1976 - 5/1981 | Đảng Cộng sản Việt Nam |
2 | Phạm Hưng | 1981 - 1997 | |
3 | Trịnh Hồng Dương | 1997 - 2002 | |
4 | Nguyễn Văn Hiện | 2002 - 2007 | |
5 | Trương Hòa Bình | 2007 - 2016 | |
6 | Nguyễn Hòa Bình | 2016 - nay |
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam), which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.