USS Sailfish (SS-192) là một tàu ngầm lớp Sargo được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Ban đầu mang tên Squalus, tên đặt theo một chi cá mập thuộc bộ Cá nhám góc, nó bị đắm trong khi lặn thử nghiệm ngoài khơi bờ biển New Hampshire vào ngày 23 tháng 5, 1939, khiến 26 thành viên thủy thủ đoàn tử nạn. Nó được trục vớt, sửa chữa và tái biên chế vào tháng 5, 1940 như là chiếc Sailfish, là tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chi Cá buồm. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười hai chuyến tuần tra và đánh chìm bảy tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 45.029 tấn. Được rút ra khỏi hoạt động trên tuyến đầu vào đầu năm 1945, nó đảm nhiệm vai trò huấn luyện cho đến khi xung đột chấm dứt, và xuất biên chế vào cuối năm 1945. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1948. Sailfish được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Tàu ngầm USS Sailfish (SS-192) ngoài khơ Xưởng hải quân Mare Island, Vallejo, California, ngày 13 tháng 4 năm 1943 | |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Squalus (SS-192) |
Đặt tên theo | một chi cá mập thuộc bộ Cá nhám góc |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine |
Đặt lườn | 18 tháng 10, 1937 |
Hạ thủy | 14 tháng 9, 1938 |
Người đỡ đầu | bà Caroline Brownson Hart |
Nhập biên chế | 1 tháng 3, 1939 |
Xuất biên chế | 15 tháng 11, 1939 |
Đổi tên | Sailfish, 9 tháng 2, 1940 |
Số phận |
|
Tên gọi | USS Sailfish (SS-192) |
Đặt tên theo | chi Cá buồm |
Nhập biên chế | 15 tháng 5, 1940 |
Xuất biên chế | 27 tháng 10, 1945 |
Xóa đăng bạ | 30 tháng 4, 1948 |
Danh hiệu và phong tặng |
|
Số phận | Bán để tháo dỡ, 18 tháng 6, 1948 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Sargo |
Kiểu tàu | tàu ngầm tổ hợp dẫn động trực tiếp và diesel-điện |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 310 ft 6 in (94,64 m) |
Sườn ngang | 26 ft 10 in (8,18 m) |
Mớn nước | 16 ft 8 in (5,08 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) |
Tầm hoạt động | 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h) |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 5 sĩ quan, 54 thủy thủ |
Vũ khí |
|
Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với Lớp Salmon dẫn trước, duy trì một tốc độ 21 hải lý trên giờ (39 km/h) để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội. Ngoài ra, tầm hoạt động 11.000 hải lý (20.000 km) cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản. Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước.
Lớp Sargo có chiều dài 310 foot 6 inch (94,64 m), với trọng lượng choán nước khi nổi là 1.450 tấn Anh (1.470 t) và khi lặn là 2.350 tấn Anh (2.390 t). Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric, có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt. Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm).
Squalus được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 18 tháng 10, 1937.Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 9, 1938, được đỡ đầu bởi bà Caroline Brownson Hart, phu nhân Đô đốc Thomas C. Hart, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 3, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Oliver F. Naquin.
Sau khi được sửa chữa tại xưởng tàu, từ ngày 12 tháng 5, 1939, Squalus tiến hành một loạt các đợt lặn thử nghiệm ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire. Trong đợt lặn vào sáng ngày 23 tháng 5 ngoài khơi quần đảo Shoals, van nạp khí chính bị hỏng đã khiến ngập nước phòng ngư lôi phía sau, cả hai phòng động cơ và khoang nghỉ của thủy thủ, khiến 26 người bị đuối nước ngay lập tức. Phản ứng nhanh chóng của thủy thủ đoàn đã ngăn cho các khoang khác không bị ngập nước, và Squalus đắm tại tọa độ 42°53′B 70°37′T / 42,883°B 70,617°T, ở độ sâu 243 ft (74 m).
Squalus nhanh chóng được tàu chị em Sculpin (SS-191) tìm thấy, và duy trì được liên lạc qua đường điện thoại. Thợ lặn từ tàu cứu hộ tàu ngầm Falcon (AM-28) bắt đầu hoạt động cứu hộ dưới dự chỉ huy của một chuyên gia cứu hộ, Thiếu tá Hải quân Charles Momsen, sử dụng buồng cứu hộ McCann; sĩ quan Y học Cao cấp giám sát quá trình là bác sĩ Charles Wesley Shilling. Dưới sự hướng dẫn của nhà nghiên cứu Albert R. Behnke, các thợ lặn áp dụng quy trình lặn sử dụng hỗn hợp khí Heliox (79% Heli và 21% Oxi) để tránh hội chứng mất tri giác do lặn sâu, qua đó đã chứng minh giả thuyết nghiện nitrogen của Behnke. Các thợ lặn đã giải cứu 33 người còn lại trên tàu, bao gồm một nhân viên dân sự. Bốn thợ lặn William Badders, Orson L. Crandall, James H. McDonald và John Mihalowski được tặng thưởng Huân chương Danh dự do thành tích giải cứu này, một kết quả khả quan so với tai nạn của tàu ngầm Anh Thetis trong vịnh Liverpool chỉ một tuần sau đó.
Công việc trục vớt Squalus do Chuẩn đô đốc Cyrus W. Cole, chỉ huy trưởng Xưởng hải quân Portsmouth giám sát. Công việc do Đại úy Floyd A. Tusler thuộc Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa thực hiện, dưới sự trợ giúp của Trung tá Henry Hartley, trợ lý về kỹ thuật. Kế hoạch của Tusler dự tính sẽ nâng con tàu làm ba giai đoạn, để không nổi lên quá nhanh một đầu mất kiểm soát, nhiều khả năng sẽ chìm trở lại. Trong 50 ngày, thợ lặn buộc dây cáp bên dưới chiếc tàu ngầm và nối vào các ụ nổi. Vào ngày 13 tháng 7, 1939, phần đuôi đã nổi lên thành công, nhưng trượt khỏi dây cáp và đắm trở lại. Thêm 20 ngày chuẩn bị nữa với thiết kế lại ụ ổi và cách bố trí các sới dây cáp, trước khi Squalus được trục vớt thành công và kéo đến Xưởng hải quân Portsmouth vào ngày 13 tháng 9. Con tàu xuất biên chế vào ngày 15 tháng 11, 1939.
SS-192 được đổi tên thành Sailfish vào ngày 9 tháng 2, 1940, trở thành tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chi Cá buồm. Sau khi được sửa chữa, tân trang và đại tu, nó tái biên chế vào ngày 15 tháng 5, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Morton C. Mumma Jr.
Sailfish được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm bảy tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 45.029 tấn.
Dãi băng Hoạt động Tác chiến | Đơn vị Tuyên Dương Tổng thống | Huân chương Phục vụ Phòng vệ Hoa Kỳ |
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ | Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương với 9 Ngôi sao Chiến trận | Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II |
Wiki Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về USS Sailfish (SS-192). |
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article USS Sailfish (SS-192), which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.