Touhou Project (東方プロジェクト, Tōhō Purojekuto?, Dự án Đông Phương), còn được biết với tên Toho Project hay Project Shrine Maiden, là một sê-ri game dōjin của Nhật Bản tập trung chủ yếu vào thể loại bắn đạn trong địa ngục đạn (bullet hell shooters) được làm bởi nhà phát triển Team Shanghai Alice, vốn thực tế chỉ có một người duy nhất được biết với tên ZUN, lo tất cả từ phần đồ họa, âm nhạc, lập trình và hầu hết các phần khác.
Tháng 10 năm 2010, sê-ri này được giới thiệu vào sách kỷ lục Guinness là "sê-ri trò chơi bắn đạn có nhiều sản phẩm do người hâm mộ làm nhất".
Touhou Project | |
---|---|
Thể loại | Shoot 'em up, đối kháng |
Phát triển Touhou Project | Team Shanghai Alice (trước đây là ZUN Soft) |
Phát hành | Team Shanghai Alice (trước đây là Amusement Makers) |
Tác giả | ZUN |
Nền tảng | NEC PC-9801, Windows |
Nền tảng ban đầu | NEC PC-9801 |
Phiên bản đầu tiên | Highly Responsive to Prayers Lần đầu ra mắt: tháng 11 năm 1996 Ra mắt chính thức: 15 tháng 8 năm 1997 |
Phiên bản cuối cùng | Unfinished Dream of All Living Ghosts 13 tháng 8 năm 2023 (C102) |
Website chính thức | Trang mạng của nhà phát triển |
Touhou Project bắt đầu vào năm 1995 với sản phẩm đầu tiên Highly Responsive to Prayers được phát triển bởi Amusement Makers cho dòng máy tính NEC PC-9801 của Nhật Bản; sau đó được phát hành vào tháng 11 năm 1996. Bốn tựa game Touhou kế tiếp được phát hành trong giai đoạn từ tháng 8 năm 1997 tới tháng 12 năm 1998 cũng dành cho hệ máy NEC PC-9801. Trong ba năm rưỡi sau đó hoạt động của Touhou Project dừng lại cho tới khi tựa game Touhou đầu tiên trên nền Windows, Embodiment of Scarlet Devil, được phát hành vào tháng 8 năm 2002, do chỉ một mình ZUN thực hiện sau khi ông tách khỏi Amusement Makers và lập ra Team Shanghai Alice. Sau đó Touhou Project trở thành một thương hiệu truyền thông bao trùm một số lượng lớn và không ngừng gia tăng các game chính thức cùng với rất nhiều sản phẩm khác như fan-book, nhạc, light novel, và manga.
1997 | TH01 Highly Responsive to Prayers |
---|---|
TH02 Story of Eastern Wonderland | |
TH03 Phantasmagoria of Dim. Dream | |
1998 | TH04 Lotus Land Story |
TH05 Mystic Square | |
1999 | |
2000 | |
2001 | |
2002 | TH06 Embodiment of Scarlet Devil |
2003 | TH07 Perfect Cherry Blossom |
2004 | TH08 Imperishable Night |
TH07.5 Immaterial and Missing Power* | |
2005 | TH09 Phantasmagoria of Flower View |
TH09.5 Shoot the Bullet | |
2006 | |
2007 | TH10 Mountain of Faith |
2008 | TH10.5 Scarlet Weather Rhapsody* |
TH11 Subterranean Animism | |
2009 | TH12 Undefined Fantastic Object |
TH12.3 Touhou Hisoutensoku* | |
2010 | TH12.5 Double Spoiler |
TH12.8 Fairy Wars | |
2011 | TH13 Ten Desires |
2012 | |
2013 | TH13.5 Hopeless Masquerade* |
TH14 Double Dealing Character | |
2014 | TH14.3 Impossible Spell Card |
2015 | TH14.5 Urban Legend in Limbo* |
TH15 Legacy of Lunatic Kingdom | |
2016 | |
2017 | TH16 Hidden Star in Four Seasons |
TH15.5 Antinomy of Common Flowers* | |
2018 | TH16.5 Violet Detector |
2019 | TH17 Wily Beast and Weakest Creature |
2020 | |
2021 | TH17.5 Touhou Gouyoku Ibun |
TH18 Unconnected Marketeers | |
2022 | TH18.5 100th Black Market |
2023 | TH19 Unfinished Dream of All Living Ghosts |
Sê-ri Touhou bắt đầu trên dòng PC-98 của Nhật và năm tựa game đầu tiên của sê-ri này cũng lấy đó làm nền tảng; các người dùng PC thông dụng chỉ có thể chơi chúng thông qua chương trình giả lập. Hơn nữa, thời điểm những game này được phát hành cũng là khi dòng máy tính PC-9801 đang trên đà suy giảm. Vì lý do này chúng không có nhiều người chơi. Năm trò chơi này được làm bởi Amusement Makers, một nhóm phát triển game tại đại học ZUN theo học mà ông cũng là thành viên của nhóm trước khi rời đi.
Highly Responsive to Prayers (東方靈異伝 Tōhō Reiiden , "Đông Phương Linh Dị Truyền", tạm dịch "Truyền thuyết dị kỳ về thần linh phương Đông")
Story of Eastern Wonderland (東方封魔録 Tōhō Fūmaroku , "Đông Phương Phong Ma Lục", tạm dịch "Ghi chép về những yêu ma bị phong ấn ở phương Đông")
Phantasmagoria of Dim. Dream (東方夢時空 Tōhō Yumejikū , "Đông Phương Mộng Thời Không", tạm dịch "Không gian mộng tưởng phương Đông")
Lotus Land Story (東方幻想郷 Tōhō Gensōkyō , "Đông Phương Ảo Tưởng Hương", tạm dịch "Vùng đất ảo tưởng phương Đông")
Mystic Square (東方怪綺談 Tōhō Kaikidan , "Đông phương Quái Ỷ Đàm", tạm dịch "Câu chuyện lãng mạn kỳ bí phương Đông")
Kể từ sau Mystic Square, Touhou Project ngưng phát triển thêm trong gần bốn năm vì khi đó người tạo ra nó, ZUN, đang soạn một số bản nhạc nền cho game Seihou. Sau đó ông đã rời khỏi nhóm và thành lập Team Shanghai Alice, bắt đầu phát triển Touhou trên nền Windows. So với những game thế hệ trước, Touhou trên nền Windows có lối chơi được cải thiện đáng kể. Hầu hết các sản phẩm doujin đều dựa theo những game trong dòng Windows của Touhou.
Embodiment of Scarlet Devil (東方紅魔郷 Tōhō Kōmakyō , "Đông Phương Hồng Ma Hương", tạm dịch "Vùng đất của loài ác ma màu đỏ phương Đông")
Perfect Cherry Blossom (東方妖々夢 Tōhō Yōyōmu , "Đông Phương Yêu Yêu Mộng", tạm dịch "Giấc mộng mê hoặc phương Đông")
Immaterial and Missing Power (東方萃夢想 Tōhō Suimusō , "Đông Phương Tụy Mộng Tưởng, tạm dịch "Tụ hợp giấc mộng và suy nghĩ phương Đông")
Imperishable Night (東方永夜抄 Tōhō Eiyashō , "Đông Phương Vĩnh Dạ Sao", tạm dịch "Bức tranh màn đêm vĩnh hằng phương Đông")
Phantasmagoria of Flower View (東方花映塚 Tōhō Kaeizuka , "Đông Phương Hoa Ánh Trủng", tạm dịch "Gò đất in bóng hoa của phương Đông")
Shoot the Bullet (東方文花帖 Tōhō Bunkachō , "Đông Phương Văn Hoa Thiếp", tạm dịch "Cuộn giấy của văn chương và những bông hoa phương Đông")
Mountain of Faith (東方風神録 Tōhō Fūjinroku , "Đông Phương Phong Thần Lục", tạm dịch "Những ghi chép của thần gió phương Đông")
Scarlet Weather Rhapsody (東方緋想天 Tōhō Hisōten , "Đông Phương Phi Tưởng Thiên", tạm dịch "Cõi trời phi tưởng phương Đông")
Subterranean Animism (東方地霊殿 Tōhō Chireiden , "Đông Phương Địa Linh Điện", tạm dịch "Cung điện của những linh hồn đất phương Đông")
Undefined Fantastic Object (東方星蓮船 Tōhō Seirensen , "Đông Phương Tinh Liên Thuyền, tạm dịch "Con thuyền của tinh tú và hoa sen phương Đông")
Touhou Hisōtensoku (東方非想天則 〜 超弩級ギニョルの謎を追え Tōhō Hisōtensoku ~ Chōdokyū Ginyoru no Nazo wo Oe , tạm dịch "Những phép tắc của cõi trời phi tưởng phương Đông ~ Theo dấu những bí ẩn về sinh vật khổng lồ")
Double Spoiler (ダブルスポイラー 〜 東方文花帖 Daburu Supoiraa ~ Tōhō Bunkachō , "Double Spoiler ~ Đông Phương Văn Hoa Thiếp")
Fairy Wars (妖精大戦争 〜 東方三月精 Yōsei Daisensō ~ Tōhō Sangetsusei , "Yêu Tinh Đại Chiến tranh ~ Đông Phương Tam Nguyệt Tinh", tạm dịch "Cuối chiến lớn giứa các tiên nữ ~ Bộ ba tiên nũ phương Đông")
Ten Desires (東方神霊廟 Tōhō Shinreibyō , "Đông Phương Thần Linh Miếu", tạm dịch "Ngôi miếu của những linh hồn thần thánh phương Đông")
'Hopeless Masquerade (東方心綺楼 Tōhō Shinkirou , "Đông Phương Tâm Ỷ Lâu", tạm dịch "Ngọn tháp của trái tim tươi đẹp phương Đông")
Double Dealing Character (東方輝針城 Touhou Kishinjō , "Đông Phương Huy Châm Thành", tạm dịch "Tòa thành của mũi kim chói sáng phương Đông")
Impossible Spell Card (弾幕アマノジャク Danmaku Amanojaku , "Đạn Mạc Thiên Tà Quỷ")
Urban Legend in Limbo (東方深秘録 Touhou Shinpiroku , "Đông Phương Thâm Bí Lục", tạm dịch "Ghi chép về những sự kiện bí ẩn phương Đông")
Legacy of Lunatic Kingdom (東方紺珠伝 Touhou Kanjuden , "Đông Phương Cám Châu Truyền", tạm dịch "Truyền thuyết phương Đông về tinh cầu màu xanh biếc")
Antinomy of Common Flower(東方憑依華 Touhou Hyouibana, "Đông Phương Bằng Y Hoa",tạm dịch "Đóa hoa chiếm hữu của phương Đông")
Hidden Star in Four Seasons'' (東方天空璋 Touhou Tenkuushou , "Đông Phương Thiên Không Chương", tạm dịch "Nửa khối ngọc bội bầu trời phương Đông")
Violet Detector (秘封ナイトメアダイアリー Hifuu Nightmare Diary , Bí Phong Ác Mộng Nhật Ký)
Wily Beast and Weakest Creature (東方鬼形獣 Touhou Kikeijuu, "Đông Phương Quỷ Hình Thú", tạm dịch "Loài quỷ hình thú ở phương Đông")
Suibotsushita Chinshuu Jigoku (東方剛欲異聞 Touhou Gouyoku Ibun , "Đông Phương Cương Dục Dị Vấn", tạm dịch "Vấn đề kì dị ở Phương Đông cần sự cứng rắn")
Như mọi tựa game bắn đạn thông thường, người chơi sẽ điều khiển nhân vật chính bắn đạn vào kẻ địch và đánh bại chúng. Và cũng như mọi tựa game bắn đạn trong địa ngục đạn, người chơi sẽ phải ngụp lặn trong một lượng lớn đạn mà kẻ địch dùng để tấn công, người chơi Touhou vẫn thường hay gọi là "mưa đạn" hay "biển đạn", tên gọi chính thức của chúng là danmaku (弾幕 danmaku , "màn đạn" hoặc "bắn đạn theo màn"). Người chơi có thể thu thập các vật phẩm rơi ra từ kẻ địch (hoặc từ một số nguồn khác) để tăng sức mạnh đạn của mình, tăng điểm số đạt được, có thêm bom hoặc thêm mạng.
Touhou cũng có nhiều điểm đặc trưng. Thứ nhất là nhân vật luôn có "kích thước thật", với tên gọi khác là hitbox, nhỏ hơn kích thước của hình đại diện, nghĩa là về cơ bản nhân vật trên thực tế "nhỏ" hơn những gì chúng ta tưởng tượng, và không chỉ nhân vật mà ngay cả đạn cũng có hitbox nhỏ hơn kích thước mà chúng ta nhìn thấy, khiến cho người xem, nếu không biết rõ, sẽ hoàn toàn choáng ngợp bởi lượng đạn bắn ra trong Touhou trong khi người chơi thì có thể "đi" qua lớp lớp đạn mà vẫn toàn mạng. Thứ hai là khả năng "đi chậm" hay "tập trung" (chế độ focus), khả năng focus (giữ nút Shift trong quá trình chơi) cho phép nhân vật đi chậm lại, thực hiện những pha "lướt" qua đạn, ngoài ra trong chế độ focus, cách bắn của người chơi cũng sẽ thay đổi, trở nên tập trung hơn, phù hợp trong khi đánh với Middle Boss và Boss giữa và cuối trận đấu. Thứ ba là chỉ số "lướt đạn" (graze), thể hiện qua việc để đạn sượt qua nhân vật ở cự ly gần, chỉ số này giúp tăng điểm số cho người chơi, gián tiếp cổ vũ người chơi đương đầu với đạn thay vì chọn một vị trí an toàn nào đó và bắn một cách thụ động. Các game Touhou sau này tồn tại một ranh giới nằm ở khoảng trên màn hình, có tên gọi "đường ranh giới thu thập" (item get border line) hay "điểm thu thập" (point of collection), mỗi khi nhân vật đi qua ranh giới này, toàn bộ vật phẩm sẽ tự được nhân vật hút về bất kể vị trí của chúng trên màn hình.
Cả trùm và người chơi đều có thể sử dụng những vũ khí đặc biệt với tên gọi spell card (スペルカード Superukādo , tạm dịch "Thẻ phép thuật"), spell card của người chơi trong các game bắn đạn thì thường hay được gọi bằng "bom" (bomb). Mỗi loại bom có một năng lực và cách hoạt động khác nhau, nhưng tất cả chúng đều có điểm chung là có khả năng phá đạn, khiến nhân vật bất tử và hầu hết đều gây sát thương lên kẻ địch. Bom là loại kỹ năng được dùng có giới hạn và nếu dùng bom ngay tại thời điểm ngắn khi nhân vật bị trúng đạn (thường được gọi bằng tên "ranh giới giữa sống và chết" - "border between life and death") thì có thể ngăn không cho nhân vật bị tiêu diệt, động tác này thường được gọi là "phản công bằng bom" (counter-bomb).
Đối với trùm thì spell card được dùng theo một cách khác. Mỗi trùm thường có hai cách thức tấn công, cách "thông thường" (non-spell card) và cách dùng spell card, và thời gian của mỗi loại tấn công được thể hiện thông qua các thanh máu, trùm luôn khởi đầu với cách tấn công thông thường và đầy thanh máu, khi thanh máu này cạn hết, spell card sẽ được sử dụng - một thanh máu mới xuất hiện và trùm tấn công với những đường đạn mới. Khi thanh máu đó cạn thì spell card coi như chấm dứt, và trùm sẽ chuyển về cách tấn công thường hoặc tiếp tục dùng spell card khác. Nếu spell card chấm dứt trước thời gian quy định và người chơi không mất mạng hay bom trong quá trình đó, spell card đó sẽ được coi là đã bị "nắm bắt" (captured) và người chơi sẽ có điểm thưởng. Trùm ở màn chơi càng cao thì càng có nhiều spell card, cũng có nghĩa là càng có nhiều thanh máu và cần nhiều thời gian hơn để đánh bại.
Không phải loại spell card nào cũng có thanh máu, một số loại spell card (hầu hết là của các trùm cấp cao) khiến trùm bất tử hoàn toàn trong quá trình sử dụng, và người chơi không có cách nào khác ngoài việc phải trụ tới khi spell card đó hết thời gian sử dụng (timeout), ngược lại cũng có những spell card không có thời gian hoạt động giới hạn, nghĩa là người chơi chỉ có cách bắn không ngừng cho tới khi spell card đó chấm dứt, chúng được gọi là "no-timeout spell card". Đa số spell card lặp lại một số đường đạn nhất định, nhưng cũng có một số loại spell card có đường đạn khó dần (dày hơn, nhanh hơn, lắt léo hơn) theo thời gian hoạt động, và gần như toàn bộ spell card "timeout" đều thuộc loại thứ hai này. Một số trùm có các spell card vô cùng khó và người chơi chỉ có thể gặp chúng khi thỏa mãn một số điều kiện nhất định, chúng là các spell card mạnh nhất của trùm và được gọi bằng "last word".
Touhou có bốn loại mức độ - 'Easy' (dễ), 'Normal' (vừa), 'Hard' (khó) và 'Lunatic' (điên cuồng) - với độ khó lần lượt tăng dần. Bất kể độ khó thể nào, các game Touhou bắn đạn thuần túy luôn có sáu màn chơi, ngoại trừ Embodiment of Scarlet Devil thì chỉ có năm nếu người chơi chọn độ khó 'easy'. Tùy thuộc vào độ khó mà những đường đạn mà kẻ địch bắn ra sẽ khó hơn, và trong một số trường hợp trùm ở độ khó cao hơn sẽ có những spell card mới trong khi cũng trùm đó, màn đó, ở độ khó thấp hơn thì lại không có. Đôi khi spell card có đường đạn tương tự nhau nhưng ở cấp độ khác nhau thì lại có tên khác nhau.
Nếu người chơi đánh bại được cả sáu màn chơi mà không dùng bất kỳ lượt "tiếp tục" (continue) tại bất kỳ cấp độ nào khó hơn 'normal', họ sẽ mở khóa được màn chơi mới ứng với nhân vật mà họ chọn, các ngoại lệ trong đó người chơi vẫn mở được màn chơi trong cấp độ 'easy' bao gồm Story of Eastern Wonderland, Mystic Square, Perfect Cherry Blossom, Imperishable Night, Fairy Wars và Double Dealing Character. Màn chơi mới này có tên gọi "màn thưởng" (Extra stage) và có độ khó 'extra', không có mức độ so sánh giữa 'Extra' và bốn độ khó kia, tuy nhiên có thể nhận định độ khó 'extra' nằm trong khoảng đâu đó từ 'normal' cho tới 'lunatic'. Trong Perfect Cherry Blossom, nếu đánh bại được màn thưởng người chơi sẽ tiếp tục mở khóa được màn khó nhất có tên "màn ảo tưởng" (Phantasm stage), màn chơi này hiện tại chỉ xuất hiện duy nhất trong Perfect Cherry Blossom và có độ khó 'Phantasm', mức độ này vô cùng khó và nó thường được dùng để đặt làm mức độ của các màn chơi cực khó khác do người hâm mộ tự làm. Ngoài ra trong Ten Desires, trong chế độ đấu tập với spell card người chơi có thể trải nghiệm một loại spell card cực mạnh của trùm, độ khó của những spell card này là 'Overdrive'.
Hoàn thành màn chơi mà không mất hết mạng. Nó cũng là điều kiện cần để mở khóa màn Extra
Tương tự như 1CC nhưng khó hơn: hoàn thành màn chơi mà không mất mạng nào.
Một loại vũ khí được trao cho người chơi có khả xóa sạch đạn mạc của đối thủ, gây ra lượng sát thương lớn và có khả năng bất tử tạm thời. Sức mạnh của quả bom được bù đắp bởi sự thiếu sẵn có của nó, với hầu hết các nhân vật chơi được thường bắt đầu bằng hai. Trong Mountain of Faith và Subterranean Animism, bom không được cung cấp cho bộ đếm của riêng chúng, mà thay vào đó nó tiêu thụ một phần lực bắn của người chơi. Từ Imperishable Night trở đi, chúng được gọi là Bài Phép.
Sinh tồn trước Spell Card của đối thủ mà không bị trúng đạn, dùng bom hay hết giờ.
Dùng bom ngay khi bị trúng đạn một cách tức thời (thông thường là trong khoảng 8 khung hình), bảo vệ người chơi khỏi nguy cơ mất mạng.
Màn cuối cùng của mỗi bản game Touhou, được mở khóa sau khi hoàn thành được 1CC của màn chơi chính. Màn Extra thường ngắn hơn, nhưng đồng thời lại khó hơn so với màn chơi chính.
Là một khả năng có thể kích hoạt bất kỳ lúc nào, nó sẽ giảm tốc độ của người chơi, khiến việc điều khiển trở nên dễ dàng hơn. Từ bản Touhou 7 trở đi, chế độ tập trung sẽ làm hiện hitbox và tập trung hỏa lực vào hướng trực diện người chơi.
Số lượng điểm lướt đạn khi người chơi lướt qua đạn mạc của đối thủ.
Là điểm chấm sáng của Sprite người chơi, nếu bị trúng đạn thì người chơi sẽ bị mất mạng.
Là các vật phẩm được rơi ra khi người chơi tiêu diệt được các con lính, midboss hoặc boss. Đó có thể là các điểm số, sức mạnh, hoặc các mảnh bom, bom và các mảnh mạng, mạng, giúp ích cho người chơi trong việc hoàn thành các bản game Touhou Danmaku.
Phương thức tấn công chính của người chơi. Mỗi trò chơi Windows Touhou cung cấp cho mỗi nhân vật ít nhất hai kiểu bắn để lựa chọn.
Một tính năng tùy chọn trong một số trò chơi Touhou sẽ giảm tốc độ khung hình khi đạt đến một số lượng lớn đạn nhất định trên màn hình. Nhược điểm của nó là các phần phát lại của các bản chơi áp dụng chức năng này, sẽ không được lưu.
Là một tính năng của các bản Touhou Windows về sau, khi người chơi ở trạng thái đầy sức mạnh (thường là chỉ số sức mạnh 4.00), và khi di chuyển lên nửa phía trên của màn hình chơi game, nó sẽ tự động hút lấy tất cả các vật phẩm trên màn hình (trừ các vật phẩm kiểu các mảnh vỡ UFO ở Touhou 12 và các mảnh hồn thú ở Touhou 17) về phía người chơi. Nó giúp cho người chơi không cần thực hiện việc lướt đạn nhiều để lấy các vật phẩm khó kiếm, hoặc các vật phẩm ở các vị trí nguy hiểm (mặc dù dùng bom vẫn có các tác dụng đó).
Một cái tên cho các chiêu thức tấn công đặc biệt của các midboss và boss khi gần hết thanh máu, các phase cuối cùng, hay các midboss của màn Extra. Người chơi có thể dùng các Spell Card của mình như một quả Bom.
Cốt truyện Touhou Project của Touhou Project xoay quanh những dị biến xảy ra trong một vùng đất hư cấu tên là Gensokyo (幻想郷 Gensōkyō , "Ảo Tưởng Hương", nghĩa là "vùng đất của ảo tưởng"), đây là một nơi nằm tách biệt với thế giới bên ngoài và bị cô lập bên trong một kết giới với tên gọi Đại kết giới Hakurei (博麗大結界 Hakurei Dai-Kekkai , "Bác Lệ Đại Kết Giới"). Trong quá khứ xa xưa nơi đây đầy rẫy những yêu quái, vì thế nơi đây vô cùng nguy hiểm với con người và không ít người đã bỏ mạng tại đây, tuy nhiên nơi đây cũng tập hợp những con người có thực lực chuyên săn tìm và tiêu diệt các yêu quái. Dần dần cán cân nghiên về phía con người, và số lượng người cư trú ở đây bắt đầu gia tăng. Cho tới thời điểm 500 năm về trước tính từ dị biến trong Embodiment of Scarlet Devil, một yêu quái hùng mạnh tên là Yakumo Yukari đã lập ra "ranh giới giữa hiện thực và ảo tưởng" để bảo vệ thế cân bằng và sự tồn tại của yêu quái. Nó được gọi là "Kế hoạch khuếch trương của yêu quái" (妖怪拡張計画 "Yêu quái khuếch trương kế hoạch"), biến Gensokyo thành một thế giới tưởng tượng và ngay lập tức nó đã thu hút các yêu quái vốn đang ở thế yếu ở thế giới bên ngoài. Ngoài ra, mọi thứ có sự lãng quên của thế giới bên ngoài như động vật đã bị tuyệt chủng, những đồ vật bị mất và thậm chí là cả những công trình kiến trúc cũng xuất hiện ở đây. Vì Gensokyo vốn được tách ra từ Nhật Bản, vì thế vị trí của nó ở thế giới thực cũng nằm ngay trên đất Nhật Bản.
Với sự hiện diện của kết giới, Gensokyo là một vùng đất gần như nội bất xuất, ngoại bất nhập. Sự tồn tại của Gensokyo không được ghi nhận ở thế giới bên ngoài và ngược lại, khiến cho cộng đồng sinh vật ở nơi đây tự phát triển theo một hướng riêng. Và mặc dù tách biệt, vẫn có thế giới ở bên ngoài Gensokyo, có nghĩa là Gensokyo không phải một không gian song song. Trong Gensokyo không có biển vì nó vốn được tách ra từ vùng núi nội địa. Trong Gensokyo có vô số loài yêu quái, trong số đặc biệt phải kể tới tengu và kappa với nền văn minh phát triển tới mức tự lập thành một xã hội của riêng chúng, con người trong Gensokyo hầu hết sống tại một nơi gọi là Làng của con người (人間の里 Ningen no Sato , "Nhân Gian Lý"), ngoại trừ một số con người có thực lực cao thì có thể sống riêng lẻ. Gensokyo còn có phù thủy, pháp sư, người thú, ma cà rồng, các loại linh hồn và cả thần thánh.
Gensokyo vào thời điểm hiện tại, xuất hiện từ sau Embodiment of Scarlet Devil, phép thuật và hiện tượng tâm linh hoàn toàn chiếm ưu thế, không như thế giới bên ngoài vốn coi những thứ đó là "mê tín" kể từ thời Minh Trị và khoa học kỹ thuật hoàn toàn áp đảo. Đường nối duy nhất được biết giữa Gensokyo và thế giới bên ngoài là tại đền Hakurei (博麗神社 Hakurei Jinja , "Bác Lệ Thần Xã"). Luật dùng spell card được thiết lập sau đó nhằm đảm bảo cán cân thế lực ở Gensokyo luôn ổn định.
Trong Gensokyo, cứ cách một khoảng thời gian thì lại có một "dị biến" xảy đến. Mỗi dị biến đều có ảnh hưởng tới toàn bộ Gensoyko và không rõ ai là người đứng sau chúng. Touhou hầu hết tập trung vào các dị biến trong cốt truyện của mình, nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ như trong Mountain of Faith vốn không có dị biến nào mà chủ yếu chỉ nói về các sự kiện.
Các yêu quái là người đứng sau những dị biến, và thông thường vu nữ của đền Hakurei là Reimu sẽ lên đường tìm hiểu và giải quyết dị biến này cũng như trừng phạt người đã gây ra nó. Tuy nhiên không phải khi nào (gần như là chưa bao giờ tính từ Embodiment of Scarlet Devil) cô cũng làm công việc này một mình, nhiều nhân vật khác mà chủ yếu Kirisame Marisa cũng có thể bắt tay giải quyết những dị biến. Khi những dị biến xảy ra, các linh hồn và tiên nữ sẽ bị ảnh hưởng theo nhiều cách thông qua hoàn cảnh, dị biến hoặc từ chính bản thân người gây ra dị biến, kết quả là chúng sẽ mạnh lên trong thời gian dị biến diễn ra, vì thế xuất hiện tường hợp chỉ một tiên nữ nho nhỏ cũng đánh bại được Reimu. Ngoài ra cũng có con người sống trong làng tham gia giải quyết dị biến.
Touhou sở hữu một dàn nhân vật khổng lồ so với các tựa game khác cùng thể loại. Gần như toàn bộ các nhân vật trong Touhou đều là các nhân vật nữ, chủ yếu là các thiếu nữ. Trong khi hầu hết các nhân vật không được phát triển đầy đủ về thông tin cho một game có cốt truyện, nhiều người chơi vẫn yêu mến họ, kể cả những nhân vật có thông tin hết sức mơ hồ vẫn có cộng đồng người hâm mộ của riêng cho mình. Các nhân vật trong Touhou thuộc đủ mọi chủng loại: người, yêu quái, ma, thần, thánh, có đủ mọi lứa tuổi: Từ vài chục cho tới vài ngàn (cá biệt một số nhân vật như Yagokoro Eirin theo logic thì có thể có tuổi lên đến hàng trăm triệu). Đứng giữa hơn 100 nhân vật nữ, số nhân vật "phái mạnh" có thể đếm được chỉ bằng hai bàn tay: Genjii (một con rùa), Sokrates (một con mèo), Konpaku Youki (nửa người nửa ma), Hijiri Myouren (không rõ, có thể là con người), Morichika Rinnosuke (lai người và yêu quái) và Unzan (một nyūdō). Có một số nhân vật khác có xuất hiện trong hình dạng nam giới (Shingyoku) nhưng giới tính thật vẫn chưa rõ ràng.
Touhou Project là dự án một người được phát triển bởi Jun'ya Ōta (thường được fan hâm mộ gọi là ZUN), một tay ông lo hết toàn bộ phần đồ họa, âm thanh và lập trình cho các game của mình, tuy nhiên ZUN cũng hợp tác với Twilight Frontier trong các game thuộc loại đối kháng bao gồm: Immaterial and Missing Power, Scarlet Weather Rhapsody, Touhou Hisōtensoku, Hopeless Masquerade, Urban Legend in Limbo và Antinomy of Common Flowers. Ngoài ra trong Fairy Wars, ông cũng để cho Hirasaka Makoto lo phần đồ họa nhân vật.
Tựa game Touhou đầu tiên Highly Responsive to Prayers được cho ra đời năm 1996 vốn được xem như là một bài thử về lập trình. Touhou chỉ trở thành một game bắn đạn từ tựa game thứ hai của nó Story of Eastern Wonderland, vì thời đó những tựa game bắn đạn được hồi sinh nhờ vào game RayForce và ZUN từng một thời gian dài hâm mộ những game như thế. ZUN ấn định chủ đề chính và hướng đi của Touhou bắt đầu từ tựa game thứ sáu của nó, Embodiment of Scarlet Devil.
Theo như bài phỏng vấn trong Bohemian Archive in Japanese Red, ZUN phát triển các game của mình bằng Visual Studio, Adobe Photoshop, và Cubase SX.
Ngoài các game dōjin, Team Shanghai Alice cũng mở rộng Touhou sang các dạng truyền thông khác.
Từ năm 2002 đến năm 2016, mười album CD nhạc đã được phát hành như một phần của "ZUN's Music Collection". Chúng được đánh số từ Tập 1 đến 9 theo ngày phát hành, với Unknown Flower, Mesmerizing Journey được đánh số là 5.5 do kích thước nhỏ. Mỗi album chứa các bản phối âm nhạc từ các trò chơi cũng như các tác phẩm mới:
Mỗi album (ngoại trừ Dolls in Pseudo Paradise, Unknown Flower, Mesmerizing Journey và Rainbow-Colored Septentrion) bao gồm một tập sách do ZUN viết, ghi lại các hoạt động của "Câu lạc bộ niêm phong bí mật" (秘 封 倶 楽 部, Hifū Kurabu), một "câu lạc bộ những người làm nghề giải thuật" ở Kyoto, Nhật Bản. Trong bộ sưu tập truyện ngắn, các thành viên câu lạc bộ Usami Renko và Maribel Hearn nghiên cứu và thảo luận về các chủ đề khác nhau liên quan đến Gensokyo và những điều huyền bí; Dolls in Pseudo Paradise bao gồm một câu chuyện không liên quan về số phận của tám tên trộm được đưa đến Gensokyo.
Trong năm 2006 và 2007, ZUN đã phát hành Akyu's Untouched Score (幺 樂 団 の 歴 史, Yōgakudan no Rekishi, "History of Yougakudan"), một bộ sưu tập gồm 5 tập nhạc game PC-98 bao gồm một số nhạc nền chưa được sử dụng. Các album lần lượt bao gồm Lotus Land Story, Mystic Square, Story of Eastern Wonderland, Phantasmagoria of Dim.Dream và Highly Responsive to Prayers. Mỗi bản nhạc trong bộ sưu tập được cải tiến với việc bổ sung kênh tổng hợp FM thứ sáu, kênh này ban đầu được dành riêng cho các hiệu ứng âm thanh trong trò chơi:
Nhạc nền gốc cho sáu trò chơi đối kháng chính thức cũng đã được phát hành. Các album chủ yếu bao gồm các bản phối của U2 Akiyama (あ き や ま う に, Akiyama Uni) của Twilight Frontier, với một số bản phối và / hoặc các bản phối mới của ZUN:
ZUN's Music Collection, Akyu's Untouched Score, và các bản nhạc nền của các trò chơi đối kháng đã được phát hành để tải xuống kỹ thuật số trên Google Play và iTunes Store (Nhật Bản, Hoa Kỳ). Một số CD nhạc có kèm theo các bản sao của các tác phẩm in chính thức; chúng được liệt kê dưới đây.
Một số lượng phi thường các sản phẩm phái sinh dựa trên Touhou đã được ra đời kể từ ngày phát hành Embodiment of Scarlet Devil. Chúng bao gồm các dōjinshi, nhạc dōjin, anime dōjin và game dōjin (cho dù bản thân các game Touhou cũng là các game dōjin). Nhờ vào số lượng cực lớn này các sản phẩm phái sinh của Touhou đã thúc đẩy nó trở thành một khía cạnh không thể bỏ qua đối với những sản phẩm truyền thông do người dùng tạo ra. Các hoạt động dōjin này hầu hết đều thêm vào những thông tin mới về nhân vật vốn không có trong thông tin chính thức mà ZUN đưa ra. Nhưng hầu hết chúng đều được ZUN ghi nhận, đánh giá cao và thậm chí khuyến khích những tác phẩm phái sinh này thông qua việc ràng buộc rất ít về việc sử dụng những sản phẩm của mình. Các ràng buộc chủ yếu bao gồm phân phối trái phép với mục đích thương mại và cho biết trước nội dung; khuyến cáo ghi nhận cho Team Shanghai Alice. ZUN đề cập đến rằng ông không muốn sê-ri game Touhou Project bị thương mại hóa.
Biểu đồ so sánh số lượng các nhóm dōjin trong Comiket 85 (tháng 12 năm 2013). |
Sản phẩm doujinshi phái sinh của Touhou lần đầu tiên được công bố vào tháng 12 năm 2003, cùng với sự phát hành của Perfect Cherry Blossom, có bảy nhóm đã bán các sản phẩm phái sinh của Touhou tại Comiket 65. Ở Comiket 74 diễn ra vào tháng 8 năm 2008, tổng cộng đã có 885 nhóm có sản phẩm phái sinh của Touhou trong danh sách bán của mình, so với tổng số lượng các nhóm là 35,000. Tới Comiket 85 (tháng 12 năm 2013), số lượng các nhóm bán sản phẩm phái sinh của Touhou đã lên tới 2,272 nhóm, bỏ xa các thương hiệu truyền thông khác.
Các game dōjin dựa trên Touhou cũng bao gồm sự pha trộn với cơ chế của sê-ri game khác với nhân vật của Touhou, ví dụ như "Super Marisa Land" và "Super Marisa World" (ăn theo các game Mario, lần lượt "Super Mario Land" và "Super Mario World"), "MegaMari" (dựa theo sê-ri Mega Man") và "Touhou Soccer" (dựa trên game "Captain Tsubasa" của Tecmo). Các bản nhạc của Touhou cũng vô cùng phổ biến và có thể thấy rất nhiều CD được bán tại Comiket và các sự kiện khác.
Vào sự kiện Tokyo Game Show năm 2014, ZUN cho ra mắt một dự án phối hợp cùng PlayStation để đưa một tựa game dōjin không chính thức do người hâm mộ làm lên nền tảng PlayStation 4 (PS4) và PlayStation Vita. Vào tháng 9 năm 2014, tựa game Fushigi no Gensōkyō 3 (不思議の幻想郷3) của Aqua Style, Touhou Aogami Engi: The Genius of Sappheiros (東方蒼神縁起) của Strawberry Bose và tựa game Touhou Sky Arena Matsuri (東方スカイアリーナ祭) của Area-Zero đã được công bố phát hành trên PS4. Các tựa game sẽ được công bố bởi Mediascape theo hợp đồng với hãng Sony và ZUN, đây sẽ là một phần trong việc hướng tới cho phép các game độc lập được phân phối thương mại trên các nền tảng PlayStation.
Trong số những sản phẩm phái sinh phổ biến phải kể tới sê-ri các video dạng Flash được làm bởi nhóm dōjin music tên là IOSYS. Một số video trong số chúng như "Marisa Stole the Precious Thing," rất phổ biến trên các diễn đàn của otaku và Nico Nico Douga.
_,,....,,_ _人人人人人人人人人人人人人人人_ -''":::::::::::::`''> ゆっくりしていってね!!! < ヽ::::::::::::::::::::: ̄^Y^Y^Y^Y^Y^Y^Y^Y^Y^Y^Y^Y^Y^Y^ ̄ |::::::;ノ´ ̄\:::::::::::\_,. -‐ァ __ _____ ______ |::::ノ ヽ、ヽr-r'"´ (.__ ,´ _,, '-´ ̄ ̄`-ゝ 、_ イ、 _,.!イ_ _,.ヘーァ'二ハ二ヽ、へ,_7 'r ´ ヽ、ン、 ::::::rー''7コ-‐'"´ ; ', `ヽ/`7,'==─- -─==', i r-'ァ'"´/ /! ハ ハ ! iヾ_ノ i イ iゝ、イ人レ/_ルヽイ i | !イ´,' | /__,.!/ V 、!__ハ,' ,ゝ レリイi (ヒ_] ヒ_ン).|.|、i.|| `! !/レi' (ヒ_] ヒ_ン レ'i ノ !Y!"" ,___, "" 「 !ノ i | ,' ノ !'" ,___, "' i.レ' L.',. ヽ _ン L」 ノ|.| ( ,ハ ヽ _ン 人! | ||ヽ、 ,イ| ||イ| / ,.ヘ,)、 )>,、 _____, ,.イ ハ レ ル` ー--─ ´ルレ レ´Bản gốc "Yukkuri shite itte ne!!!" vẽ bằng Shift JIS. Yukkuri Marisa (bên trái) và Yukkuri Reimu (bên phải) |
Một trong những meme nổi tiếng dựa trên Touhou là "Yukkuri shite itte ne!!!" (ゆっくりしていってね!!! thường được dịch là "Bạn nên thả lỏng người đi!!!", trong tiếng Anh được dịch là "You should be taking it easy!!!"), xoay quanh những sinh vật có phần đầu giống như các nhân vật và không có thân với tên gọi "yukkuri". Meme này vốn được tạo ra từ một nỗ lực bất thành trong việc vẽ hai nhân vật chính là Reimu và Marisa bằng nghệ thuật vẽ Shift JIS. Sau đó các yukkuri trở nên nổi tiếng đến mức câu nói "Yukkuri shite itte ne!!!" đã thắng huy chương đồng trong cuộc thi "Những câu nói lóng trên mạng của năm" ở Nhật Bản năm 2008. Yukkuri cũng xuất hiện trên các quảng cáo mạng, trong các anime Natsu no Arashi!, Pani Poni Dash! và nổi tiếng nhất là trên trang đầu 2channel, diễn đàn mạng lớn nhất trên thế giới. Hai nhân vật là Saigyouji Yuyuko và Hakurei Reimu cũng có góp mặt trong game Lord of Vermilion Re:2 của Square Enix.
Touhou cũng có một số anime do người hâm mộ thực hiện. Một trong số đó là dự án anime dōjin của nhóm Maikaze với tên Touhou Musou Kakyou (東方 夢想夏郷 "Đông Phương Mộng Tưởng Hạ Hương"), anime lấy bối cảnh và các nhân vật của Touhou với hai tập được phát hành vào năm 2008 và 2012. Mặc dù được tạo ra bởi một studio nghiệp dư, nó vẫn được nhiều đánh giá cao với dàn diễn viên lồng tiếng chuyên nghiệp. Một dōjin anime khác là Gensou Mangekyou ~ The Memories of Phantasm (幻想万華鏡 "Ảo Tưởng Vạn Hoa Kính") của nhóm Manpuku Jinja, được phát hành vào năm 2011 tại Comiket 80 với một tập được dựa theo cốt truyện của Perfect Cherry Blossom. Một dự án khác, Anime Tenchou x Touhou Project (アニメ店長 x 東方Project), được sản xuất bởi Ufotable trong lễ kỷ niệm lần thứ 10 của chuỗi cửa hàng Animate của Nhật Bản, đây là một đoạn video quảng cáo cho cửa hàng bao gồm thế giới của Touhou và linh vật của Animate, Anizawa Meito.
Touhou Project nhận được đề cử Giải thưởng Nghệ thuật Truyền thông hàng năm lần thứ 11 được tổ chức bởi Cục Văn hóa Nhật Bản, hạng mục Giải trí. Tuy nhiên Wii Sports của Nintendo đã nhận được giải cao nhất và Touhou Project không giành được giải thưởng nào..
Hakurei Jinja Reitaisai (博麗神社例大祭 Hakurei Jinja Reitaisai , "Bác Lệ Thần Xã Lệ Đại Tế", tạm dịch "Lễ tế lớn tại đền Hakurei") hay thường được gọi vắn tắt là Reitaisai là sự kiện dōjin lớn nhất trong các sự kiện chỉ dành riêng cho Touhou. Mặc dù không có liên hệ chính thức với Team Shanghai Alice, tên gọi "Hakurei Jinja Reitaisai" được chính ZUN đặt cho sự kiện này. Nó lần đầu được tổ chức vào năm 2004 như là một cách để cho Team Shanghai Alice công bố phiên bản dùng thử của những tựa game sắp ra mắt cho fan trước khi phát hành chúng trên mạng; ngoài ra Reitaisai năm 2004 còn có 114 nhóm tham gia, và kể từ đó nhiều sản phẩm phái sinh của Touhou được tập hợp và bán ra tại đây. Bắt đầu vào tháng 4 hoặc tháng 5 mỗi năm, sự kiện này được tổ chức tại Ōta, Tokyo vào năm 2004; Naka-ku, Yokohama vào năm 2005; Sunshine City, Tokyo vào các năm 2006 và 2007; kể từ năm 2008 về sau nó được tổ chức tại Tokyo Big Sight. Năm 2010 đánh dấu sự ra đời của Reitaisai SP, một Reitaisai khác được tổ chức vào mỗi mùa thu nhằm tăng thêm độ phổ biến. Vào năm 2011, Reitaisai đã bị tạm hoãn vì lý do an toàn sau trận động đất và sóng thần Tōhoku năm 2011. Sau đó nó được ấn định tổ chức lại vào ngày 8 tháng 5 năm 2011 với khoảng 4,940 nhóm tham gia.
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Touhou Project, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.