Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, những vụ tấn công vào các căn cứ, sân bay, kho tàng ở vùng đô thị Miền Nam chủ yếu được thực hiện bởi các lực lượng đặc công và du kích của Quân giải phóng Miền Nam ở các căn cứ vùng ngoại ô, phối hợp với các đơn vị biệt động thành hoạt động bí mật trong thành phố, hoặc các tổ chức ngoại vi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGP) nhằm gây tiếng vang về quân sự và chính trị, nhằm vào các mục tiêu quân sự như trại lính, kho tàng, tàu chở trang thiết bị quân sự; mục tiêu hậu cần như kho tàng, tàu tiếp tế, và mục tiêu dân sự là nơi tập trung đông sĩ quan và binh lính Mỹ như nhà hát, cư xá cho sỹ quan Mỹ, cầu cống, đường xe lửa, sân vận động...
một số vụ tấn công còn mở rộng sang các căn cứ Mỹ ở Lào, Campuchia và Thái Lan.
Cách thức tấn công đa dạng gồm có đặt mìn, thuốc nổ, đặt bom xe, pháo kích, cối kích, bắn hỏa tiễn, phục kích và kể cả tiến công bằng bộ binh. Đánh bom cảm tử rất hiếm khi xảy ra và nếu có cũng là ngoài kế hoạch ban đầu của người đặt bom. Một số cuộc tấn công như là cuộc tấn công vào Đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1968 cũng có thể coi là 1 cuộc tấn công cảm tử, vì những chiến sỹ tham gia cuộc tấn công đã tự xác định bản thân có rất ít cơ hội sống sót trước đối phương đông hơn nhiều lần.
Chiến thuật Những Vụ Tấn Công Của Lực Lượng Biệt Động Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tấn công và phương pháp thực hiện được kế thừa từ chiến thuật của lực lượng biệt động thành trong cuộc chiến tranh trước đó với người Pháp (như vụ đánh bom rạp hát Majestic)[cần dẫn nguồn]. Đường ray xe lửa thường xuyên bị Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt chất nổ và hàng trăm vụ nổ làm lật các toa xe lửa khiến cho hệ thống đường xe lửa từ Bắc vào Nam do Pháp xây dựng chỉ sử dụng được từ Sài Gòn đến Long Khánh . Có 3 cách đánh tiêu biểu của biệt động Sài Gòn là nổ chậm, cường tập và pháo kích . Đến 1965, lực lượng biệt động tập trung của quân khu Sài Gòn - Gia Định được thành lập gọi là F100, gồm 13 đội .
Biệt động Sài Gòn và đặc công là 2 lực lượng khác nhau:
- Đặc công là binh chủng chính quy, được trang bị vũ khí, được huấn luyện các kĩ năng cần thiết, ví dụ như cận chiến bằng vũ khí, sử dụng mìn và thuốc nổ, tiềm nhập, bơi đường dài (đối với đặc công thủy)... Biệt động thật ra chỉ tương tự như du kích, hay LLVT địa phương, không nhất thiết là lính chính quy, không nhất thiết được trang bị vũ khí và huấn luyện để chiến đấu, có thể chỉ đơn giản là ông già, trẻ con, nữ sinh... với nhiều nhiệm vụ khác nhau (tác chiến, liên lạc, điều tra địch tình, vận chuyển và cất giấu vũ khí...).
- Xây dựng mạng lưới biệt động phức tạp hơn đặc công rất nhiều. Vì biệt động hoạt động trong lòng địch, mọi thành viên đều phải có vỏ bọc, giấy tờ hợp pháp để sống công khai. Đặc công có thể mất vài tháng để huấn luyện 1 tiểu đoàn, vài tuần để tổ chức 1 trận đánh nhưng với biệt động sẽ là hàng năm để xây dựng lực lượng.
- Đặc công có thể tác chiến độc lập nhưng biệt động bắt buộc phải dựa vào dân, nếu không có dân trợ giúp thì mạng lưới không thể tồn tại được.
- Về tác chiến thì đặc công thường tác chiến vào ban đêm, nhằm đạt được mục đích tốt nhất; ngược lại, biệt động luôn tác chiến vào ban ngày (để gây tiếng vang). 1 trận đánh cường tập của đặc công tùy tình hình có thể kéo dài, nhưng 1 trận đánh cường tập của biệt động không bao giờ được kéo dài quá 5 phút.
Trong chiến tranh, truyền thông nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nói chung đều nêu những cuộc tấn công trên là rất cần thiết để góp phần vào sự nghiệp chống xâm lăng và thống nhất đất nước. Đến nay, một số vụ tấn công vẫn được nhà nước CHXHCN Việt Nam ca ngợi như những huyền thoại của cuộc chiến.
Rạng ngày 30/1, các du kích thuộc MTDTGP cùng quân chính quy Quân đội Nhân dân Việt Nam và các lực lượng tại chỗ đã đồng loạt tấn công các khu đô thị cùng các căn cứ quân sự tại Nam Việt Nam. Chiến sự dai dẳng kéo dài nhiều tuần sau đó.
Sài Gòn là 1 trong những nơi bị tấn công đầu tiên vào các mục tiêu quan trọng: Hơn 35 đơn vị đã tập kích Sân bay Tân Sơn Nhất, Dinh Tổng thống, Đại sứ quán Mỹ, Đài phát thanh Sài Gòn, Bộ tổng Tham mưu. Các căn cứ như Long Bình, Phù Đổng, Cổ Loa, Hạnh Thông Tây, Đồng Dù (Củ Chi) cũng bị tấn công. Riêng các mục tiêu như Trụ sở cơ quan viện trợ MACV, Bộ tư lệnh hải quân, kho xăng Nhà Bè, Tổng nha Cảnh sát không thực hiện được.
Tòa đại sứ quán Mỹ bị tấn công và chiếm đóng gần nửa ngày mới bị thất thủ.
Tổ biệt động số 11 do đội trưởng Ba Đen chỉ huy (quê Thái Bình, cán bộ đoàn F100) và đội phó Út Nhỏ (quê Tiền Giang, chính trị viên) tổng cộng 17 người. Họ sử dụng bộc phá đánh sập 1 mảng tường bao quanh tòa đại sứ, diệt lính gác Mỹ bên ngoài, bắn hạ và bắt sống toàn bộ các quân nhân, viên chức Mỹ ở bên trong. Với ý đồ chiếm giữ tòa đại sứ 30 phút đợi quân tiếp ứng đến rồi sẽ rút. Nhưng quân tiếp ứng bị lạc, 17 chiến sĩ biệt động bị vây bên trong tòa nhà. Họ chống cự dữ dội bằng B40, AK, AR15 và lựu đạn, thuốc nổ. Đại sứ Mỹ Bunker chạy thoát. Quân đội Mỹ cố gắng phá cửa tràn vào. Trận chiến được các phóng viên truyền hình trực tiếp gây chấn động mạnh đến tình hình chính trị nước Mỹ. Sáng sớm hôm đó, sư đoàn không vận 101 điều 1 đơn vị nhảy dù đổ lên nóc tòa nhà. Bên ngoài, quân cảnh Mỹ gây sức ép tiến vào trong, quân biệt động chống cự đến người cuối cùng. Toàn bộ 16 người tử trận, Mỹ bắt giữ đội trưởng Ba Đen bị thương nặng ngất trong đống đổ nát. 5 binh sĩ Mỹ chết tại chỗ. Thiệt hại của quân Mỹ rất nghiêm trọng: 1 nhân viên Việt Nam Cộng hòa chết, 141 binh sĩ Mỹ bị thương, 17 người chết tại bệnh viện.
Tại phi trường Tân Sơn Nhất có 181 bộ đội MTDTGP thuộc tiểu đoàn 16 đã bị thương vong trong trận tấn công vào sân bay. Đổi lại, quân Mỹ có 23 lính tử trận và 86 bị thương, quân VNCH chết 32 và bị thương 89, 13 máy bay Mỹ bị bắn hỏng trong trận này.
Tại Chợ Lớn, chiến sự ác liệt diễn ra làm nhiều nhà dân bị hư hại nghiêm trọng.
Quân Giải phóng đã nhiều lần tổ chức tấn công vào các căn cứ, sân bay của Mỹ tại Lào, Campuchia và Thái Lan. Dưới đây là một số vụ đã được tài liệu Mỹ công bố:
Đầu tháng 3/1968, 30 đặc công Việt Nam cùng 9 lính công binh bắt đầu đợt tấn công căn cứ radar Lima 85 của Mỹ đặt tại Lào. Căn cứ được đặt trên độ cao 1.700m, được bao quanh bởi các vách đá, chỉ có một con đường dốc xuống tới 1 bãi đáp dài 700m. Các đặc công được trang bị súng trường AK-47, súng SKS, thuốc nổ, lựu đạn và 3 ống phóng lựu. 18h ngày 11/3, 1 đợt pháo kích hỗ trợ cho nhóm đặc công dọn mìn và mở đường đến căn cứ. Đến 21h tối, các đặc công Việt Nam bắt đầu trèo lên vách đá, chia làm 5 nhóm để đồng thời tấn công từ nhiều phía.
Các đặc công Việt Nam đã vào vị trí vào lúc 3h sáng, tiêu diệt lính gác và trạm radar TSQ-81 bằng các khẩu súng phóng lựu. Chỉ huy căn cứ là thiếu tá Clarence Barton và nhiều nhân viên kỹ thuật của không lực Mỹ khi chạy ra đã bị đặc công Việt Nam tiêu diệt. Nhóm đặc công chỉ tổn thất 1 người trong khi đã phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh giá trị, giết chết 12 nhân viên quân sự Mỹ và ít nhất 42 lính gác người Thái Lan và người Mông, chỉ có 6 trong số 18 nhân viên CIA và phi công Mỹ tại căn cứ là sống sót. Một số lượng lớn vũ khí quanh căn cứ đã bị quân Việt Nam thu giữ, bao gồm 1 khẩu pháo 105mm, 1 khẩu pháo 85mm, 4 khẩu súng không giật, 4 súng cối hạng nặng, 9 súng máy hạng nặng và lượng đạn dược khổng lồ. Sự kiện này được chính phủ Mỹ giấu kín trong suốt 3 thập kỷ.
Sân bay Pochentong là sân bay lớn nhất ở Campuchia, chứa hơn 100 máy bay chiến đấu và vận tải của quân đội Lon Nol. Ngày 18/1/1971, sân bay này tiếp nhận thêm 30 máy bay của quân đội Sài Gòn để phục vụ cho các cuộc tấn công vào quân Giải phóng ở biên giới.
Vào đêm ngày 21-22/1/1971, Đội đặc công 25 và Tiểu đoàn 7 đặc công Phước Long, do đoàn trưởng Tống Viết Dương chỉ huy tiến hành tập kích sân bay. Khoảng 100 lính đặc công và công binh Quân đội Nhân dân Việt Nam đã âm thầm vượt qua vành đai phòng thủ "Biệt khu Thủ đô" (RMS) do quân đội Quốc gia Khmer (quân Lon Nol) thiết lập xung quanh Phnôm Pênh và thực hiện 1 cuộc đột kích ngoạn mục vào căn cứ không quân Pochentong.
Toàn đội chia thành 6 phân đội nhỏ hơn, được trang bị chủ yếu là súng trường AK-47 và súng chống tăng RPG-7. Các tốp đặc công Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thành công trong việc bí mật tháo gỡ các lớp hàng rào kẽm gai và nhanh chóng áp đảo số lính gác của Tiểu đoàn an ninh làm nhiệm vụ đêm đó.
Sau khi vào được bên trong khu căn cứ, các đội đặc công liền tung ra 1 đợt bắn phá dữ dội bằng các loại súng cá nhân và súng phóng lựu, bắn vào bất kỳ chiếc xe và máy bay nào mà họ thấy trên khu vực đậu xe tiếp giáp với đường băng và các công trình gần đó; 1 trong những đội đặc công thậm chí còn trèo vào cạnh khu nhà ga thương mại của sân bay dân sự và sau khi chiếm giữ vị trí tại nhà hàng quốc tế bên trên mái nhà, họ bắn 1 quả đạn RPG-7 vào kho chứa bom napalm gần nhà để máy bay của quân đội Sài Gòn, gây cháy nổ dữ dội. Khoảng 50 lính Lon Nol tử trận và khoảng 300 bị thương, nhiều thiết bị sân bay và xe cơ giới, 69 máy bay các loại (52 chiếc của không quân Lon Nol và 17 chiếc của Không quân Sài Gòn) bị phá hủy hoặc hư hại nặng trong trận này, trong khi Quân đội Nhân dân Việt Nam chỉ tổn thất 3 người tử trận.
Sân bay phải ngừng hoạt động hơn 10 ngày để sửa chữa. Cuộc tập kích đã xóa sổ phần lớn trang bị của không quân Lon Nol. Toàn bộ kế hoạch chi viện bằng đường không cho cuộc hành quân "Toàn thắng 1-71" của quân đội Sài Gòn bị phá sản, góp phần vào thất bại trong chiến dịch "Chenla 2" trên mặt trận đường 6 - đông bắc Campuchia.
Một đêm cuối tháng 5/1968, sau khi dùng chiến thuật đặc công đột nhập và đặt mìn vào 4 máy bay, trên đường rút ra, 5 chiến sĩ tình báo bị phát hiện. Thượng úy Bùi Thế Sách và Trung úy Lê Đức Mục tình nguyện ở lại kìm chân đối phương để 3 người còn lại rút lui an toàn. Sau 1 hồi đấu súng, chưa kịp rút cùng đồng đội thì 4 quả mìn phát nổ, Bùi Thế Sách và Lê Đức Mục hy sinh. Trận đánh sân bay Udorn đã gây thiệt hại đáng kể cho không quân Mỹ: 4 máy bay F-5 bị phá hủy, 24 sĩ quan và nhân viên kỹ thuật Mỹ thương vong. Bùi Thế Sách và Lê Đức Mục được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày 26/7/1968, khoảng 22h25, 1 tốp 5 chiến sĩ đặc công sử dụng súng tự động bắn chế áp lính canh và các trạm gác bảo vệ sân bay, trong khi 1 tốp khác xông tới bắn vào chiếc máy bay C-141 đang lăn bánh ra đường băng và ném bộc phá trúng vào động cơ máy bay, chiếc máy bay bùng cháy. Sau đó, đội đặc công này chạy tới cụm nhà ga và phá hủy 1 máy bay F-4 và rút lui. 1 chiếc HH-43 cất cánh yểm trợ cho đội bảo vệ sân bay, cũng bị đặc công bắn hỏng nhẹ. Một số phương tiện kỹ thuật cũng bị phá hủy, 1 đặc công quân Giải phóng tử trận.
Có tổng cộng 3 trận đánh tại đây:
Sân bay Utapao là nơi Mỹ đặt căn cứ máy bay B-52. Sân bay này được coi là được bảo vệ ở cấp độ cao nhất ở Thái Lan.
Vào chiều tối ngày 3/8/1968, 2 lính quân báo Phùng Hồng Lâm và Lê Văn Đình chuẩn bị 2 quả bộc phá, mỗi quả 5 kg, gài kíp định giờ, sau đó dùng chiến thuật đặc công vượt qua những hàng rào dây thép gai rồi lao thật nhanh đến 2 chiếc B-52 đỗ cạnh nhau. Gài xong bộc phá đúng 4h ngày 4/8/1968, 2 tình báo viên nhanh chóng rút khỏi sân bay, đến chỗ tập kết tắm rửa, mặc quần áo rồi ung dung bắt xe khách trở về Băng Cốc. Xe chạy được 1 quãng thì từ phía sân bay Utapao phát ra 2 tiếng nổ lớn. 2 ngày sau đó, báo chí Thái Lan đăng tin sân bay Utapao bị tập kích, 2 chiếc B-52 bị hỏng nặng và 2 chiếc khác hỏng vừa, hơn 20 sĩ quan và nhân viên kỹ thuật Mỹ thiệt mạng. Do đài chỉ huy bị hư hại, nên căn cứ không quân này phải đóng cửa 10 ngày để sửa chữa. Phùng Hồng Lâm được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Lúc 2h22 sáng 10/1/1972, 3 lính đặc công gồm Bùi Văn Phương, Vũ Công Đài, Trần Thế Lại (Tiểu đoàn 1A - Bộ Tư lệnh Đặc công) đột nhập vào sân bay. Bị phát hiện, tổ đã nổ súng tiêu diệt cả toán tuần tra gồm 2 lính Mỹ và 1 chó bec-giê. Bùi Văn Phương và Vũ Công Đài lao nhanh đến mục tiêu, dùng lựu đạn và thuốc nổ đánh vào từng chiếc máy bay. 3 khối bộc phá phát nổ và đánh hỏng nặng 3 chiếc B-52 (phía Mỹ chỉ công nhận có 1 chiếc B-52 hỏng vừa, 2 chiếc B-52 khác bị hỏng nhẹ). Nhiều lính Thái Lan bị hạ, phía Việt Nam không có thiệt hại. Cả ba đặc công tham gia trận đánh đều được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Xin hãy đóng góp cho bài viết này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. Thông tin thêm có thể được tìm thấy tại trang thảo luận. |
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Những vụ tấn công của lực lượng biệt động Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.