Thiệu Trung là một xã thuộc huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Thiệu Trung | ||
---|---|---|
Xã | ||
Xã Thiệu Trung | ||
Cổng làng Kẻ Rị – Kẻ Chè năm 2013 | ||
Hành chính | ||
Quốc gia | Việt Nam | |
Vùng | Bắc Trung Bộ | |
Tỉnh | Thanh Hóa | |
Huyện | Thiệu Hóa | |
Địa lý Thiệu Trung | ||
Tọa độ: 19°51′07″B 105°40′53″Đ / 19,851877°B 105,681286°Đ | ||
| ||
Diện tích | 3,90 km² | |
Dân số (2022) | ||
Tổng cộng | 6.187 người | |
Mật độ | 1.586 người/km² | |
Khác | ||
Mã hành chính | 15841 | |
Xã Thiệu Trung nằm ở cực nam huyện Thiệu, có vị trí địa lý:
Xã Thiệu Trung có diện tích 3,90 km², dân số năm 2022 là 6.187 người, mật độ dân số đạt 1.586 người/km².
Thời Lê, vùng đất xã Thiệu Trung ngày nay gồm hai làng là Phủ Lý (còn gọi là Bối Lý, kẻ Rị hay làng Rị) và Trà Sơn Đông (kẻ Chè hay làng Chè, sau đổi là Trà Đông và sau là Trà Hạ), thuộc tổng Vận Quy, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên.
Đến triều Gia Long, phủ Thiệu Thiên được đổi làm phủ Thiệu Hóa.
Năm 1900, hai tổng Vận Quy và Đại Bối của huyện Đông Sơn được chuyển vào huyện Thuỵ Nguyên, cùng phủ Thiệu Hóa.
Sau Cách mạng Tháng Tám, thành lập huyện Thiệu Hóa, xã Thiệu Trung thuộc huyện Thiệu Hóa.
Năm 1977, cùng với các xã hữu ngạn sông Chu thuộc huyện Thiệu Hóa, xã Thiệu Trung được sáp nhập với huyện Đông Sơn thành huyện Đông Thiệu, xã Thiệu Trung thuộc huyện Đông Thiệu. Năm 1982 huyện Đông Thiệu đổi lại là huyện Đông Sơn, xã Thiệu Trung thuộc huyện Đông Sơn. Năm 1996, xã Thiệu Trung trở lại huyện Thiệu Hóa mới tái lập.
Hiện nay xã Thiệu Trung gồm bốn làng: Phủ Lý Bắc (làng Bắc), Phủ Lý Trung (làng Trung), Phủ Lý Nam (làng Nam) (tên gọi 3 làng này có từ sau năm 1945, chia tách từ làng Phủ Lý xưa) và làng Chè Đúc (hay Trà Đúc).
Làng Phủ Lý (Kẻ Rị) là làng Việt cổ, bên bờ sông Lê, từ Đời đường - Đời Lý có tên là Bối Lý; Từ Đời Trần - nay có tên là xã Phủ Lý, làng Phủ Lý (gọi nôm là Kẻ Rị). Bối Lý là trung tâm kinh tế, phật giáo của Ái Châu, đầu Thế ký 10, hào trưởng, phú gia địch quốc Lê Lương, nhà giàu có, nuôi 3000 môn đệ, ông cho xây 3 chùa Hương Nghiêm (Bối Lý - Kẻ Rị), Minh Nghiêm (Kẻ Bôn), Trinh Nghiêm (Kẻ Go). Đinh Tiên Hoàng thấy ông là người có đạo, giao cho ông giữ chức Bộc xạ tướng công, phụ trách quân lương. Làng Kẻ Rị nổi tiếng với nghề làm thừng (nay đã mai một) và cũng là quê hương nhà sử học đầu tiên của đất nước là Lê Văn Hưu. Hội làng Kẻ Rị được tổ chức mỗi năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu. Hội xuân Kẻ Rị được tổ chức vào ngày mồng 9 và 10 tháng 2 âm lịch. Sau đó từ mồng 7 đến mồng 10 tháng 3 âm lịch là đợt hội thứ hai. Còn hội thu được gọi là Tết cơm mới tổ chức vào tháng 9 hằng năm, có tổ chức nấu cơm thi, xôi thi, cỗ thi, và những cổ được giải sẽ đem tế thần. Kẻ Rị thờ năm vị thành hoàng là: Thánh Đào, Thiên Phúc, Đại Hành, Thái Tổ và Bạch Y Long. Trong đó Thánh Đào (tức trạng nguyên Đào Tiêu, thi đậu khoa 1275) là vị thánh cả. Ông được phong phúc thần, người dân địa phương phong ông người con quê hương, đỗ đạt cao nhất là đức Thánh Cả (Nhân Thân) có vị thế cao hơn các Thiên Thần khác: Thiên Phúc, Đại Hành, Thái Tổ, Bạch Y Long. Có một vị thần nữ là Bạch Y Long cũng là thiên thần, miếu Ngũ thờ bà dựng trên đất chợ Rị cũ cạnh sông nhà Lê vào những ngày hội khi vào miếu Bà không được mang đồ trắng, ai vô ý sẽ gặp phải điều chẳng lành. Sau các cuộc tế chung, tới các dòng họ và gia đình cũng như khách thập phương vào dâng hương lễ thánh. Đặc biệt nhất của hội làng Kẻ Rị là cuộc đánh cờ người mà dân quanh vùng còn lưu truyền là "Rượu Kẻ Mơ, cờ Kẻ Rị". Bởi vì ngoài việc đấu trí được thua nó còn là một hình thức diễn xướng dân gian độc đáo. Nó nâng cao và phát triển môn cờ người, chuyển từ cờ ván sang cờ trận kèm theo hình thức diễn xướng. Tổ chức đấu cờ ở đây còn gắn chặt với việc tế thành hoàng; tế cầu phúc, nhất là tế Bạch Y Long. Nghi thức chính của hội quy định là: mồng 9 buổi sáng tế yên vị, chiều tế yết, tối tế chầu; mồng 10 tế chính, lễ vật có lợn luộc cả con, bò thui cả con và các thứ thông thường khác.
Làng Chè là tên nôm của Trà Đông thuộc xã Thiệu Trung. Làng có nghề đúc truyền thống nổi tiếng. Xưa làng có hai phường Xóm Trên và Xóm Dưới. Mỗi phường có khoảng 100 thợ, chủ phường thường là người đứng đầu một dòng họ lớn. Sản phẩm là các mặt hàng dân dụng và mỹ nghệ. Về sau do nhu cầu của đời sống, thợ làng Chè còn sản xuất thêm các mặt hàng công nghiệp và quốc phòng. Làng đã đúc thành công tượng Bác Hồ bằng đồng, cao hơn 1,5 m, nặng hơn 400 kg, và tạo ra những sản phẩm đồng mỹ nghệ tham gia hội chợ quốc tế. “Làng có từ thời Lê với tên gọi là Trà Sơn Đông. Đầu thế kỷ XIX là thôn Thượng thuộc xã Trà Sơn, tổng Vận Quy, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa. Thời vua Đồng Khánh (1885 – 1888) đổi tên là thôn Trà Đông xã Trà Sơn, tổng Vận Quy, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Đến năm Thành Thái thứ 12 (1900) cắt chuyển tổng Vận Quy về huyện Thụy Nguyên (sau đổi thành phủ Thiệu Hóa), Trà Đông thuộc đơn vị hành chính trên. Sau năm 1945 Trà Đông thuộc xã Minh Quang; năm 1953 Trà Đông thuộc xã Thiệu Trung”.
Năm 1953, làng Chè Đông tác khỏi Chè Thượng (Trà Sơn, nay là thị trấn Thiệu Hóa), nhập với Phủ Lý (Kẻ Rị) thành xã Thiệu Trung.
Người Kẻ Rị (Phủ Lý) được thờ là Thành Hoàng Làng:
Xã Thiệu Trung được coi là một vùng quê giàu truyền thống văn hóa và rất hiếu học. Kẻ Rị là làng khoa bảng số 1 của Xứ Thanh về đỗ đạt cao, có 2 trạng nguyên và 1 bảng nhãn, và 7 tiến sĩ thời phong kiến:
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Thiệu Trung, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.