Giải đã nhiều lần đổi tên trong các năm qua:
- 1988-1999: Giải Grammy cho Ca khúc thuộc thể loại phim điện ảnh hoặc truyền hình (tiếng Anh: The Grammy Award for Best Song Written Specifically for a Motion Picture or for Television).
- 2000-2011: Giải Grammy cho Ca khúc thuộc thể loại phim điện ảnh, truyền hình hoặc phương tiện truyền thông khác (tiếng Anh: The Grammy Award for Best Song Written for a Motion Picture, Television or Other Visual Media).
- 2012-nay: Giải Grammy cho Ca khúc nhạc phim hay nhất (tiếng Anh: The Grammy Award for Best Song Written for Visual Media).
Giải Grammy cho Ca khúc nhạc phim hay nhất |
---|
Chiếc cúp hình máy hát mạ vàng trao cho người chiến thắng giải thưởng Grammy |
Trao cho | Ca khúc thuộc thể loại phim điện ảnh, truyền hình hoặc phương tiện truyền thông khác. |
---|
Quốc gia | Hoa Kỳ |
---|
Được trao bởi | Viện Hàn Lâm Nghệ thuật Thu Âm Hoa Kỳ |
---|
Lần đầu tiên | 1988 |
---|
Trang chủ | grammy.com |
---|
Giải sẽ được trao cho các nhạc sĩ sáng tác bài hát chứ không phải nghệ sĩ biểu diễn (trừ khi nghệ sĩ biểu diễn cũng sáng tác bài hát đó). Các đề cử của giải cũng sẽ được tính cho các bài hát phát hành vào năm trước đó.
Danh sách chi tiết Giải Grammy Cho Ca Khúc Nhạc Phim Hay Nhất
Thập niên 2010
Giải Grammy lần thứ 58 (2016)
- Selma - Common & Che Smith & John Legend cho bài hát "Glory"
- Fifty Shades of Grey – Belly, Deheala, Stephan Moccio, & The Weeknd cho bài hát "Earned It"
- Fifty Shades of Grey – Ilya, Savan Kotecha, Max Martin, Tove Lo, & Ali Payami cho bài hát Love Me like You Do"
- Furious 7 – Andrew Cedar, DJ Frank E, Wiz Khalifa, & Charlie Puth cho bài hát "See You Again"
- The Hunting Ground – Lady Gaga & Diane Warren for "Til It Happens to You"
Giải Grammy lần thứ 57 (2015)
Giải Grammy lần thứ 56 (2014)
Giải Grammy lần thứ 54 (2013)
Giải Grammy lần thứ 54 (2012)
- Tangled – Alan Menken & Glenn Slater cho bài hát "I See the Light" (Mandy Moore & Zachary Levi trình diễn)
- Never Say Never – Diane Warren cho bài hát "Born To Be Somebody" (Justin Bieber trình diễn)
- Family Guy – Ron Jones, Seth MacFarlane & Danny Smith cho bài hát "Christmastime Is Killing Us" (Bruce McGill and Seth MacFarlane trình diễn)
- Winnie The Pooh – Zooey Deschanel cho bài hát "So Long" (Zooey Deschanel & M. Ward trình diễn)
- Footloose – Zac Brown, Wyatt Durrette, Drew Pearson & Anne Preven cho bài hát "Where The River Goes" (Zac Brown trình diễn)
- Burlesque – Diane Warren cho bài hát "You Haven't Seen the Last of Me" (Cher trình diễn)
Giải Grammy lần thứ 53 (2011)
- Crazy Heart – Ryan Bingham & T Bone Burnett; Ryan Bingham – cho bài hát "The Weary Kind"
- The Princess and the Frog – Randy Newman (songwriter); Dr. John – cho bài hát "Down in New Orleans"
- Avatar – Simon Franglen, Kuk Harrell & James Horner (songwriters); Leona Lewis – cho bài hát "I See You (Theme from Avatar)"
- True Blood – Lucinda Williams; Lucinda Williams & Elvis Costello – cho bài hát "Kiss Like Your Kiss"
- Treme – Steve Earle; Steve Earle – cho bài hát "This City"
Giải Grammy lần thứ 52 (2010)A
- Slumdog Millionaire – Gulzar; A.R. Rahman; Tanvi Shah – For the song "Jai Ho"
- Where the Wild Things Are – Karen O; Nick Zinner – For the song "All Is Love"
- Twilight – Josh Farro; Hayley Williams; Taylor York – For the song "Decode"
- Cadillac Records – Ian Dench; James Dring; Amanda Ghost; Beyoncé Knowles; Scott McFarnon; Jody Street – For the song "Once In A Lifetime"
- The Wrestler – Bruce Springsteen – cho bài hát "The Wrestler"
^ "The Climb", bài hát được sáng tác bởi Jessi Alexander và Jon Mabe trong bộ phim Hannah Montana: The Movie, ban đầu đã được đề cử nhưng hãng Walt Disney rút lại vì nó không được viết riêng cho bộ phim để đáp ứng điều kiện đề cử. Nhà phát hành NARAS đã cảm ơn Disney cho sự trung thực của mình cho bài hát "The Climb", sau đó được thay thế bởi "All Is Love", bài hát có lượng số phiếu bầu cao thứ năm.
Thập niên 2000
Giải Grammy lần thứ 51 (2009)
Giải Grammy lần thứ 50 (2008)
- Dreamgirls – Siedah Garrett; Henry Krieger – cho bài hát "Love You I Do"
Giải Grammy lần thứ 49 (2007)
- Cars – Randy Newman – cho bài hát "Our Town"
Giải Grammy lần thứ 48 (2006)
47th Grammy Awards (2005)
46th Grammy Awards (2004)
- A Mighty Wind – Christopher Guest; Eugene Levy; Michael McKean – cho bài hát "A Mighty Wind"
- 2 Fast 2 Furious – Ludacris; Keith McMasters – cho bài hát "Act A Fool"
- 8 Mile – Jeff Bass; Eminem; Luis Resto – cho bài hát "Lose Yourself"
- Chicago – Fred Ebb; John Kander – cho bài hát "I Move On"
- Gangs of New York – U2 – cho bài hát "The Hands That Built America"
Giải Grammy lần thứ 45 (2003)
Giải Grammy lần thứ 44 (2002)
- "Malcolm in the Middle" – John Flansburgh; John Linnell – cho bài hát "Boss of Me"
Giải Grammy lần thứ 43 (2001)
- Toy Story 2 – Randy Newman – cho bài hát "When She Loved Me"
- Charlie's Angels – Samuel J. Barnes; Beyoncé Knowles; Jean Claude Olivier; Cory Rooney – cho bài hát "Independent Women Part I"
- Magnolia – Aimee Mann – cho bài hát "Save Me"
- Man on the Moon – Peter Buck; Mike Mills; Michael Stipe – cho bài hát "The Great Beyond"
- Wonder Boys – Bob Dylan – cho bài hát "Things Have Changed"
Giải Grammy lần thứ 42 (2000)
Tham khảo
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Giải Grammy cho Ca khúc nhạc phim hay nhất, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.