Phan Tứ (1930-1995) là một nhà văn Việt Nam, đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học đợt II năm 2000.
Lê Khâm Phan Tứ | |
---|---|
Bút danh | Phan Tứ, Phan Bốn |
Nghề nghiệp | Nhà văn |
Quốc tịch | Việt Nam |
Dân tộc | Kinh |
Tư cách công dân | Việt Nam |
Giai đoạn sáng tác | 1958 - 1995 |
Tác phẩm nổi bật | Mẫn và tôi, Trước giờ nổ súng, Bên kia biên giới, Người cùng quê |
Giải thưởng nổi bật | Giải thưởng Hồ Chí Minh |
Thân nhân | Phan Châu Trinh (ông ngoại) Lê Ấm (cha) Phan Thị Châu Liên (mẹ) Phan Thị Châu Lan (dì ruột) Nguyễn Thị Bình (em họ) |
Ông tên thật là Lê Khâm, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1930 tại thị xã Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông là người con thứ tư và cũng là người con trai duy nhất trong gia đình có bảy người con. Thân sinh ông là ông Lê Ấm (1897-1976), từng làm Đốc học ở trường Quốc học Huế từ 1924, Trường Quốc học Quy Nhơn (1928-1945), hiệu trưởng trường Trung học Bồ Đề Hội An (1966-1975). Mẹ của ông là bà Phan Thị Châu Liên (1901-1996), tục gọi là cô Đậu, vốn là con gái đầu của nhà Chí sĩ Phan Châu Trinh. Em gái họ của ông là bà Nguyễn Thị Châu Sa (sau này là Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình). Ông cũng là cháu ngoại của nhà cách mạng Phan Châu Trinh
Tuy sinh ở Bình Định nhưng suốt thời niên thiếu, Phan Tứ lại sống ở quê cha ở Quế Phong, Quế Sơn, Quảng Nam. Vốn sinh trong gia đình có truyền thống học giỏi, ông từ nhỏ đã khá giỏi về môn văn và tiếng Pháp. Năm 15 tuổi, ông đã tham gia hoạt động trong đội tuyên truyền xung phong của tỉnh Quảng Nam và tham gia cướp chính quyền ở địa phương trong Cách mạng tháng Tám.
Năm 1950, ông nhập ngũ, theo học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, phân hiệu Trung Bộ (Cồn Kênh, Thọ Xuân, Nông Cống, Như Xuân, Thanh Hóa). Cuối năm 1951, sau khi tốt nghiệp, ông được phân công theo đội quân tình nguyện Việt Nam sang chiến đấu ở chiến trường Hạ Lào. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc. Năm 1958, ông theo học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cũng năm này, ông đã viết cuốn "Bên kia biên giới" với bút danh Lê Khâm, viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam tại Hạ Lào. Năm 1960, ông lại giới thiệu cuốn "Trước giờ nổ súng" với cùng đề tài trên. Cả hai quyển sách được đánh giá cao, và ông trở thành một nhà văn tên tuổi thời bấy giờ khi mới vừa tròn 30 tuổi.
Sau khi tốt nghiệp năm 1961, ông được phân công trở lại công tác tại chiến trường Miền Nam, làm phái viên tuyên truyền khu ủy Liên khu V, ủy viên đảng đoàn Văn nghệ khu 5, và viết văn dưới bút danh Phan Tứ. Bút danh này trở nên nổi tiếng gắn liền với các tác phẩm của ông về sau này. Do sức khỏe yếu và chịu ảnh hưởng bởi tác động của chất độc hóa học, năm 1966 ông được rút ra Bắc để chữa bệnh, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, sau đó giữ chức quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Năm 1970, ông được kết nạp làm hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Sau năm 1975, ông về sinh sống và làm việc tại quê hương Quảng Nam. Ông từng là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn, Ủy viên Ban Thư ký (Ban thường vụ) Ban chấp hành Hội Nhà văn khóa III.
Ông từng là Đại biểu Quốc hội khóa 8.
Ông qua đời đột ngột lúc 10 giờ 5 phút ngày 17 tháng 4 năm 1995 tại thành phố Đà Nẵng, khi còn dang dở bộ tiểu thuyết "Người cùng quê".
Ông từng được Nhà nước Việt Nam trao tặng:
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Phan Tứ, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.