Nakashima Mika: Ca sĩ Nhật Bản

Nakashima Mika (中島 (なかしま) 美嘉 (みか) (Trung Đảo Mỹ Gia), Nakashima Mika? sinh ngày 19 tháng 2 năm 1983) là một nữ ca sĩ kiêm diễn viên Nhật Bản.

Chiều cao : 160 cm

Nakashima Mika
Tên khai sinh中島 美嘉
(Nakashima Mika)
Sinh19 tháng 2, 1983 (41 tuổi)
Nguyên quánquận Kagoshima, tỉnh Kyushu, Nhật Bản
Thể loạiJ-pop, Jazz, Blues,...
Năm hoạt động2001-tới nay
Hãng đĩaSony Music Entertainment Japan
WebsiteMika Nakashima (tiếng Nhật)

Tiểu sử Nakashima Mika

Nakashima Mika sinh tại tỉnh Kagoshima, vùng Kyushu, Nhật Bản. Ngay từ khi còn nhỏ, cô đã luôn mơ ước trở thành ca sĩ. Sau đó, cô quyết định không học trung học, và theo đuổi giấc mơ âm nhạc của mình. Mika đã gửi cuốn băng demo đầu tiên đến một hãng thu âm và họ đã cho cô một cơ hội. Cô đã được chọn ra từ 3000 cô gái, để đóng vai nữ chính trong phim truyền hình "Kizudarake no Love Song (Scarred Love Song)" trên đài truyền hình Fuji TV vào mùa thu 2001. Tháng 11 năm 2001, hãng Sony Music Associated Records phát hành đĩa đơn đầu tiên của cô mang tựa Stars, cũng là ca khúc chủ đề của phim. Đĩa đơn thứ hai Crescent Moon (là một bản nhạc nhảy mang giai điệu của những năm 1980) chỉ phát hành 100.000 bản. Đĩa đơn này đã bán hết trong ngày đầu tiên phát hành. Tháng 3 năm 2002, cô phát hành đĩa đơn thứ ba One Survive (đã nhận được phản hồi rất tốt) và tuyển tập phim ca nhạc đầu tiên Film Lotus. Cũng trong năm 2002, đĩa đơn thứ tư Helpless Rain vào tháng 5 và đĩa đơn thứ năm Will vào tháng 8 được phát hành. Kết quả là 200.000 đĩa đã bán được và gặt hái nhiều ca khúc Top Ten.

Đĩa nhạc đầu tay True được phát hành vào tháng 8 năm 2002, đã đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Oricon. Chỉ trong vòng 3 tuần, đĩa này đã đạt mức 1 triệu bản. Kỷ niệm tròn một năm khởi nghiệp, Mika phát hành đĩa nhạc đặc biệt Resistance. Đĩa nhạc này đã đạt vị trí quán quân trong 2 tuần liên tục. Vào ngày 18 tháng 12, phim tài liệu Kiseki: the document of a start được phát hành.

Năm 2002 cũng là một năm thành công của Mika khi cô được nhận các giải thưởng "Nghệ sĩ mới của năm" tại giải thưởng Japan Gold Disc Awards, giải thưởng Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất của năm tại giải thưởng Japan Request Awards, và giải thưởng Nghệ sĩ mới của năm tại giải thưởng Japan Record Awards lần thứ 44.

Mika đã trở thành một trong những giọng ca nữ nổi tiếng nhất tại Nhật Bản. Những bài hát nổi tiếng của cô bao gồm ca khúc cuối phim Gundam SeedFind the Way, Sakurairo MaukoroYuki no Hana. Riêng ca khúc Yuki no Hana được trình bày lại bởi hai ca sĩ Hàn Quốc là Park Hyo-Shin và Seo Young-Eun trong phim truyền hình Hàn Quốc Mianhada Saranghada (Xin lỗi, Anh Yêu Em). Đây cũng là một trong những ca khúc karaoke thịnh hành nhất tại Nhật Bản trong năm 2004. Cũng trong năm 2004, cô đã hát ca khúc kết thúc của phim anime dựa trên manga "Hi no tori", được phát sóng trên đài truyền hình NHK.

Trong năm 2005, cô diễn xuất cùng nữ diễn viên Miyazaki Aoi trong phim điện ảnh NANA, dựa trên manga cùng tên, được khởi chiếu vào ngày 10 tháng 9 năm 2005. Mika cũng đã hát hai trong số những ca khúc chủ đề trong phim. Các ca khúc được phát hành trong đĩa đơn Glamorous Sky với tên nghệ danh là Nana starring Mika Nakashima. Ca khúc chủ đề Glamorous Sky được viết lời bởi tác giả manga Yazawa Ai và được soạn nhạc bởi hyde (vocalist của L'Arc-en-Ciel). Đây cũng là đĩa đơn quán quân đầu tiên của Mika trên bảng xếp hạng Oricon. Đĩa này đã bán được hơn 423.000 bản, trở thành đĩa đơn bán chạy nhất trong năm 2004 của một nữ ca sĩ, và là đĩa đơn bán chạy thứ 10 trong năm. Đĩa đơn tiếp tục bán chạy trong năm 2006 và đã bán được tổng cộng 442.000 bản, chỉ kém 10.000 bản so với đĩa đơn Endless Story của nữ diễn viên cùng diễn xuất trong phim Nana là nữ ca sĩ Ito Yuna.

Đĩa đơn thứ 17 của Mika, mang tên Cry No More được phát hành vào tháng 2 năm 2006. Đĩa này bao gồm hai ca khúc: Cry No More (ca khúc kết thúc thứ hai của anime Blood+) và Black & Blue.

Ấn phẩm Nakashima Mika

Các đĩa nhạc

  1. True (28 tháng 8, 2002) #1, đã bán hơn 1.200.000 bản
  2. Love (6 tháng 11, 2003) #1, đã bán hơn 1.400.000 bản
  3. Music (9 tháng 3, 2005) #1, đã bán hơn 600.000 bản
  4. Best (7 tháng 12, 2005) #1, đã bán hơn 1.001.504 bản ở Nhật (đã đạt#3 trên bảng xếp hạng "United World Charts")
  5. The End (13 tháng 12, 2006) #2, đã bán hơn 200.000 bản
  6. Yes (14 tháng 3, 2007) #3, đã bán hơn 300.000 bản
  7. Voice (26 tháng 11, 2008) #1, đã bán hơn 350.000 bản
  8. No More Rules (3 tháng 3, 2009) #5, đã bán hơn 50.000 bản

Các đĩa mini

  1. Resistance (7 tháng 11, 2002)
  2. Oborozukiyo ~Inori (15 tháng 9, 2004)

Tham khảo

Tags:

Tiểu sử Nakashima MikaẤn phẩm Nakashima MikaNakashima MikaCa sĩDiễn viênNhật BảnTrợ giúp:Tiếng Nhật

🔥 Trending searches on Wiki Tiếng Việt:

Chữ Quốc ngữDương Tử (diễn viên)Tranh Đông HồUEFA Champions LeagueHang Sơn ĐoòngĐội tuyển bóng đá quốc gia AlbaniaDanh sách trường đại học, học viện và cao đẳng tại Hà NộiTần Thủy HoàngNhóm WagnerPhápBắc MỹThần điêu đại hiệp (phim truyền hình 2006)Luật Hồng ĐứcĐội tuyển bóng đá quốc gia AnhYoo Ah-inTình yêu dối lừaCarles PuigdemontNhà bà NữNguyễn Phú TrọngÔ nhiễm môi trườngNúi Bà ĐenGmailVladimir Vladimirovich PutinThủ đô của Nhật BảnHội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt NamHari WonTập đoàn FPTTrà VinhMã Vân (thương nhân)NgườiXử Nữ (chiêm tinh)Dận TườngTôn NữDương Hoàng YếnBắc KinhPhạm Văn ĐồngTôn Đức ThắngGrigori Yefimovich RasputinPhim khiêu dâmThanh minhChú đại biĐoàn GiỏiVăn họcLưu Diệc PhiLý Thường KiệtThái NguyênTỉnh thành Việt NamĐại Việt sử ký toàn thưChủ nghĩa khắc kỷNhà MạcĐội tuyển bóng đá quốc gia Việt NamBắc Trung BộQuảng NamReal Madrid CFChùa Bái ĐínhThành nhà HồTỉnh Bách NhiênQuần đảo Hoàng SaRosé (ca sĩ)Harry PotterBlue LockChiến tranh LạnhGiải bóng đá Ngoại hạng AnhHạ LongLý Lan ĐịchĐịa lý Việt NamHưng YênVụ phát tán video Vàng AnhDragon Ball – 7 viên ngọc rồngNgu Thư HânChâu PhiCây gạoThụy ĐiểnNhà TốngTrần Thủ ĐộĐảng Cộng sản Việt NamLê Thị NhịNhật thựcSóc Trăng🡆 More