Mardy Simpson Fish (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1981) là cựu vận động viên quần vợt người Mỹ.
Sở trường ở mặt sân cứng, anh là một trong những tay vợt tiêu biểu của làn sóng quần vợt Mỹ thống trị thế giới những năm đầu thập niên 2000.
Fish tại họp báo ngày 3 tháng 8 năm 2010 | |||||||||||||||
Tên đầy đủ | Mardy Simpson Fish | ||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quốc tịch | Hoa Kỳ | ||||||||||||||
Nơi cư trú | Los Angeles, California | ||||||||||||||
Sinh | 9 tháng 12, 1981 Edina, Minnesota | ||||||||||||||
Chiều cao | 1,88 m (6 ft 2 in) | ||||||||||||||
Lên chuyên nghiệp | 2000 | ||||||||||||||
Giải nghệ | 2015 | ||||||||||||||
Tay thuận | Phải (trái tay 2 tay) | ||||||||||||||
Tiền thưởng | 7.392.041 $ | ||||||||||||||
Đánh đơn | |||||||||||||||
Thắng/Thua | 301–218 (58%) | ||||||||||||||
Số danh hiệu | 6 | ||||||||||||||
Thứ hạng cao nhất | 7 (15 tháng 8 năm 2011) | ||||||||||||||
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |||||||||||||||
Úc Mở rộng | TK (2007) | ||||||||||||||
Pháp mở rộng | V3 (2011) | ||||||||||||||
Wimbledon | TK (2011) | ||||||||||||||
Mỹ Mở rộng | TK (2008) | ||||||||||||||
Các giải khác | |||||||||||||||
ATP Tour Finals | VB (2011) | ||||||||||||||
Thế vận hội | CK (2004) | ||||||||||||||
Đánh đôi | |||||||||||||||
Thắng/Thua | 136–105 (56%) | ||||||||||||||
Số danh hiệu | 8 | ||||||||||||||
Thứ hạng cao nhất | 14 (6 tháng 7 năm 2009) | ||||||||||||||
Thành tích đánh đôi Gland Slam | |||||||||||||||
Úc Mở rộng | TK (2005, 2009) | ||||||||||||||
Pháp Mở rộng | V2 (2002) | ||||||||||||||
Wimbledon | BK (2009) | ||||||||||||||
Mỹ Mở rộng | V3 (2001, 2010) | ||||||||||||||
Giải đồng đội | |||||||||||||||
Davis Cup | CK (2004) | ||||||||||||||
Hopman Cup | VĐ (2008) | ||||||||||||||
Thành tích huy chương
|
Fish từng giành được 6 danh hiệu ATP World Tour và 4 lần vào tới chung kết Masters Seriies của, bao gồm Cincinnati (2003 và 2010), Indian Wells (2008) và Montreal 2011. Thành tích tốt nhất của anh tại các giải Grand Slam là vòng tứ kết Úc mở rộng 2007, Mỹ mở rộng 2008 và Wimbledon 2011. Tại Thế vận hội Mùa hè 2004, Fish cũng vào tới chung kết nhưng chỉ có được huy chương bạc sau khi để thua Nicolás Massú.
Tháng 4 năm 2011, Fish vượt qua Andy Roddick để trở thành tay vợt nam số 1 nước Mỹ tại bảng xếp hạng của ATP, với thứ hạng cao nhất sự nghiệp ở vị trí số 7 thế giới vào tháng 8. Năm đó cũng là lần duy nhất anh tham gia ATP World Tour Final. Fish giải nghệ sau Giải Mỹ mở rộng 2015. Năm 2019, Fish thay thế Jim Courrier làm đội trưởng Đội tuyển quần vợt Davis Cup của Hoa Kỳ.
Wiki Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Mardy Fish. |
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Mardy Fish, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.