Bồn Man (盆蠻) hay Trấn Ninh, Muang Phuan là một quốc gia cổ từng tồn tại ở khu vực tỉnh Xiêng Khoảng, một phần các tỉnh Hủa Phăn đến Khăm Muộn, ở phía Đông nước Lào, và một phần phía tây các tỉnh miền Bắc Trung bộ Việt Nam (khoảng Nghệ An đến Quảng Bình).
Vùng đất này từng bị chi phối, tranh giành bởi nhiều quốc gia lân cận như Đại Việt, Lan Xang, Xiêm La và sau cùng là Pháp, và ngày nay thuộc lãnh thổ nước Lào. Vùng này từng nằm dưới sự cai trị của nước Đại Việt từ thời vua Lê Nhân Tông với tên gọi là Trấn Ninh (鎮寧), thuộc xứ Nghệ An. Sau hơn 350 năm thì vùng này bị Nguyễn Ánh (vua Gia Long nhà Nguyễn) cắt cho Lào. Tính đến nay thì đây là vùng lãnh thổ lớn nhất mà Việt Nam bị mất, và đặc biệt hơn nữa là vùng này bị mất không phải do bị xâm chiếm mà là do vua Việt Nam tự ý cắt cho nước ngoài.
Bồn Man | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1707–1899 | |||||||||
Thủ đô | Xiengkhuang | ||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Lào | ||||||||
Tôn giáo chính | Phật giáo | ||||||||
Chính trị | |||||||||
Chính phủ | Chế độ quân chủ | ||||||||
Lịch sử | |||||||||
• Lan Xang chia | 1707 | ||||||||
• Lào thuộc Pháp | 1899 | ||||||||
| |||||||||
Hiện nay là một phần của | Lào |
Đến thời Minh Mạng thì Việt Nam chiếm lại, nhưng đến thời Pháp thuộc, Trấn Ninh được người Pháp cắt sang lãnh thổ Lào thuộc Liên bang Đông Dương, sau này trở thành tỉnh Xiengkhuang của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Dân tộc Tai Phuan hoặc người Phuan là một nhóm dân tộc Thái-Lào theo Phật giáo, di cư từ miền Tây Nam Trung Quốc đến (Ai Lao) Lào. Khoảng cuối thế kỷ 13 đã hình thành bộ lạc độc lập sống tập trung ở Cánh đồng Chum (trên cao nguyên Xiêng Khoảng).
Tiểu quốc Bồn Man của Người Tai Phuan được thành lập vào khoảng năm 1369 sau khi nhà Nguyên mất quyền kiểm soát ở Vân Nam vào tay nhà Minh bên Trung Quốc. Các bộ tộc người Thái ở phía nam Vân Nam giành được cơ hội độc lập trong lãnh thổ họ cư trú.
Ranh giới Bồn Man với phía Bắc, phía Tây và phía Nam là vương quốc Lan Xang, phía Đông là Đại Việt. Ban đầu, khoảng nửa cuối thế kỷ 14, Bồn Man được hợp nhất vào Lan Xang dưới thời vua Fa Ngum.
Vương quốc Bồn Man được các tù trưởng thuộc dòng họ Cầm cai trị, với thủ đô là Xieng Khouang, dân số ước chừng 9 vạn hộ. Tuy nhiên, tiểu quốc Bồn Man đã có một quyền tự chủ cao trước Lan Xang, mặc dù họ đã phải cống nạp thuế cho Lan Xang.
Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mụcː "Tháng 7, mùa thu. 1448. Tồn Bồn Man cầu xin phụ thuộc về ta. Triều đình đem đất của Tồn Bồn Man đặt làm châu Quy Hợp. Lời chua - Tồn Bồn Man: Đất này ở về phía tây tỉnh Nghệ An, đông nam giáp miền thượng du Nghệ An và phần rừng rú thuộc Quảng Bình, tây bắc giáp châu Ninh Biên thuộc Hưng Hóa và miền thượng du thuộc Thanh Hóa, phía dưới tiếp giáp với Quỳ Châu và Tương Dương thuộc Nghệ An. Tồn Bồn Man còn tên nữa là Bồn Man, Cầm Lư thị nối đới làm thổ tù. Khi Lê Thái Tổ đã khai quốc, Bồn Man mới bắt đầu đến triều cống. Dưới triều Lê Nhân Tông, năm Thái Hòa thứ 5 (1447), Bồn Man đến tiến cống voi và xin phụ thuộc về ta. Nhà vua xuống chiếu cho đổi Bồn Man làm châu Quy Hợp lệ thuộc vào phủ Lâm An. Theo Nhất thống chí của Lê Định thì châu Quy Hợp có 12 sách và động, đều là dân người Mán cả. Có quan quân đóng ở đó để phòng thủ. Từ đồn Quy Hợp này đi lên phía tây thì đến phủ Trấn Ninh, đường dài 1.929 tầm. Đó là con đường mà nước Vạn Tượng sang ta triều cống tất phải đi qua."
Theo cuốn Lịch sử Bồn Man Lào của M.L. Manich:
Tên của các vị tù trưởng (vua) của Bồn Man, cai trị Chieng Khuoang sau Chet Chuang, cho đến trước thời nước Lan Xang ra đời bên cạnh Bồn Man, là:
Nguyên do một phần đất Bồn Man đã xin nội thuộc Đại Việt dưới triều Hoàng đế Lê Nhân Tông, được vua Nhân Tông nhập vào nước Đại Việt, thành châu Quy Hợp xứ Nghệ An và cử quan quân sang, nhưng vẫn cho họ Lư Cầm đời đời làm Phụ đạo.
Năm 1478, Cầm Công (hay Lư Cầm Công thủ lĩnh của Bồn Man) liên kết với Lan Xang đem binh quấy nhiễu châu Quy Hợp. Vua Lê Thánh Tông sai các tướng Lê Thọ Vực, Trịnh Công Lệ... đánh quân Bồn Man và Lão Qua. Quân Đại Việt đi chia làm 5 đạo từ Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Hóa và đã đánh bại đồng thời đánh đuổi tới lưu vực sông Mê Kông giáp với Miến Điện ngày nay.
Theo Việt Nam sử lược thì: Sau khi Cầm Công bị giết, vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập lãnh thổ Bồn Man vào Đại Việt, đặt tên là Phủ Trấn Ninh và giao cho một người họ hàng của Cầm Công là (Lư) Cầm Đông làm Tuyên úy Đại sứ và đặt các quan cai trị (Quy Hợp) như trước.. Vùng đất này đặt thành phủ Trấn Ninh, gồm 7 huyện là:
Phần lãnh thổ Bồn Man thuộc về Việt Nam từ năm 1479 thời vua Lê Thánh Tông (ít phụ thuộc Lão Qua (Lan Xang) hơn), nhưng dưới hình thức tự trị (địa phương tự xử lý những việc nội bộ ít quan trọng. Nhà Lê cho thổ quan là người họ Cầm cai quản, mà không cử lưu quan sang cai trị. Về mặt hành chính, lãnh thổ Bồn Man được Đại Việt xem là thuộc xứ Nghệ An của Đại Việt.
Năm 1707, khi nhà nước Lan Xang phân rã thành 3 tiểu quốc nhỏ: Vương quốc Vientiane, Vương quốc Luang Phrabang và Vương quốc Champasak thì Muang Phuan trở thành một tiểu quốc chư hầu của Vương quốc Luang Phrabang.[cần dẫn nguồn]
Năm 1720, Muang Phuan phụ giúp vương quốc Luang Prabang trong cuộc chiến chống lại vương quốc của người Miến và người Xiêm. Dưới sự lãnh đạo của Chao Kham Sattha, Muang Phuan một lần nữa tham gia cuộc chiến với vùng Thakhek, 1 chư hầu của Vương quốc Vientiane.
Vào khoảng thời gian cuối những năm Vĩnh Hựu (1735-1739) thời Lê Ý Tông, Trấn Ninh (với cả Sầm Châu và Trình Quang) bị một hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Mật chiếm cứ (bắt giam tù trưởng Trấn Ninh là (Lư) Cầm Hương), chống lại nhà Lê-Trịnh. Năm 1770, Trịnh Sâm điều quân sang đánh dẹp Lê Duy Mật, lấy lại Trấn Ninh và giao cho cháu Cầm Hương là Lư Cầm Uẩn làm tù trưởng. Đến cuối thế kỷ 18 (thập niên 1770), vương quốc Xiêm đã hình thành và lớn mạnh, thì các tù trưởng Muang Phuan (Trấn Ninh) bắt đầu triều cống cho Xiêm, nhưng vẫn thuộc về Đại Việt.
Thời nhà Tây Sơn Việt Nam, các tù trưởng Trấn Ninh, theo Xiêm và Vạn Tượng (Viêng Chăn) chống lại nhà Tây Sơn. Năm 1791, Trần Quang Diệu mang 3 vạn quân sang Trấn Ninh, chiếm lại vùng này bắt được các tù trưởng Thiệu Kiểu, Thiệu Đế của Trấn Ninh.
Tháng 8, Trần Quang Diệu bình được Trịnh Cao và Quy Hiệp. Tháng 10, thủ lãnh Vạn Tượng bỏ thành chạy, quân Tây Sơn lấy được vô số chiêng, trống và vài chục thớt voi. Thừa thắng đánh thẳng đến biên giới Xiêm La, chém được Tả súy là Phan Dung và Hữu súy là Phan Siêu. Binh Xiêm thua chạy tán loạn. Đất Trấn Ninh lại thuộc về Đại Việt.
Nhà Nguyễn đánh bại Tây Sơn, ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đem đất Trấn Ninh cắt về cho vương quốc Vạn Tượng của A Nỗ (Anouvong). Sự việc này được chép ngắn gọn trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục:
“ | Trấn Ninh: Đất Bồn Man xưa, hồi đầu triều Lê, họ Cầm nối nhau làm phụ đạo; đến Lê Thánh Tông chia đất này lập ra làm phủ Trấn Ninh, quản lãnh 7 huyện: Kim Sơn, Thanh Vị, Cảnh Thuần, Quang Minh, Minh Quảng, Quang Lang và Tư Thuận, cho họ Cầm nối đời làm tù trưởng. Cuối năm Vĩnh Hựu (niên hiệu Lê Ý Tông 1735-1739), Lê Duy Mật chiếm cứ, đến năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770) mới dẹp yên được, lại cho họ Cầm được nối đời quản trị. Bản Triều, năm Gia Long thứ nhất (1802) đem đất ấy phong cho nước Vạn tượng. | ” |
Đại Nam thực lục cũng chép:
“ | Trước kia vua từ thành Gia Định ra đánh miền Bắc, quốc trưởng nước Vạn Tượng là Chiêu ấn nhiều lần cho binh theo quan quân ở miền thượng đạo đi đánh giặc. Khi Bắc Hà đã định, vua lấy đất Trấn Ninh ban cho. | ” |
Như vậy sau hơn 300 năm thuộc về lãnh thổ Đại Việt dưới thời nhà Hậu Lê và nhà Tây Sơn, Trấn Ninh đã bị cắt cho nước khác.
Khi Chiêu Xanh, tù trưởng Trấn Ninh khi ấy chết, A Nỗ không lập con Chiêu Xanh là Chiêu Nội (Chao Noi) lên, nên Chiêu Nội thù A Nỗ, đồng thời Chiêu Nội chạy sang phủ Trà Lân xứ Nghệ và xin nội thuộc lại Đại Nam (nhà Nguyễn).
Đại Nam Thực Lục ghi lại sự kiện nước Vientiane diệt vong và Minh Mạng ra lệnh lấy lại phủ Trấn Ninh như sau:
Đến khi A Nỗ chống lại nước Xiêm, bị vua Xiêm là Rama III sai Chao Phraya Bodin Decha đánh cho thua chạy sang Nghệ An, qua Trấn Ninh bị Chiêu Nội bắt nộp cho Xiêm năm 1828. Chiêu Nội bị Minh Mạng khép tội chết vì hành động này.
Sau khi giết Chiêu Nội, nhà Nguyễn cử quan Việt sang cai trị Trấn Ninh. Năm 1823, nhà Nguyễn đặt thêm huyện Liêm. Phủ Trấn Ninh từ đấy bao gồm 7 huyện:
Tháng 3/1832, nổ ra cuộc khởi nghĩa của hơn 200 binh lính Trấn Ninh, do Trần Tứ và Đỗ Bắc lãnh đạo, nổi dậy chống nhà Nguyễn và liên kết với cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương. Những năm 1833-1834, trong chiến tranh Việt-Xiêm, người Thái tấn công Đại Nam (một trong các hướng là qua ngả Trấn Ninh), đất Trấn Ninh bị người Thái lấn dần. Khi người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm 1893, đã dựa theo địa hình và cắt tỉnh Houaphan (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng giao về lãnh thổ Lào (Ai Lao).
Sau khi người Xiêm giành được độc lập sau cuộc xâm lược của người Miến Điện, Vương triều Chakri đã được thành lập và nhanh chóng phục hồi, các vị vua Xiêm thực hiện các cuộc viễn chinh xâm lược chinh phục các nước xung quanh. Trong đó, người Xiêm đã thực hiện các chiến dịch lên vùng lãnh thổ phía Đông sông Mê Kông của Lào năm 1770, tấn công đất Bồn Man (1777–79, 1834–36 và 1875/76) và cưỡng bức dân cư ở đây di chuyển đến vùng lãnh thổ phía Bắc được kiểm soát bởi người Xiêm.
Năm 1870, các cuộc xâm phạm của đám tàn quân Thái Bình Thiên Quốc (Trận Ho) đã tàn phá Luang Prabang, Xieng Khuang và phá hoại các đến thờ tại vùng Bồn Man.
Các điều khoản trong hiệp ước Pháp-Xiêm 1893 đã đặt Xieng Khouang dưới sự cai trị như một phần thuộc địa của Đông Dương thuộc Pháp cho đến sau Thế chiến II.
Lãnh thổ Bồn Man của Bồn Man xưa thuộc khu vực phía tây của xứ Nghệ (tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), tức là tỉnh Xiêng Khoảng và một phần tỉnh Hủa Phăn, đến châu Quy Hợp (vùng biên giới tỉnh Khăm Muộn (Lào) với Hà Tĩnh và Quảng Bình Việt Nam ngày nay).
Xiêng Khoảng ở phía Tây Nghệ An, Hủa Phăn ở Tây Bắc Nghệ An. Theo Phan Huy Chú, phủ Lâm An xứ Nghệ vốn trước là phần đất của Bồn Man chư hầu của Ai Lao, đến năm 1448 niên hiệu Thái Hòa thứ 5, tù trưởng vùng này sang thần phục nhà Lê, Lê Nhân Tông cho nhập vào Đại Việt đổi tên thành Quy Hợp, địa giới nằm ở tận cùng phía tây xứ Nghệ. Năm 1828 Quy Hợp được đổi thuộc phủ Trấn Tĩnh.
Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú:
Theo Đại Việt địa dư toàn biên của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu:
Nhưng cũng theo Nguyễn Văn Siêu:
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Bồn Man, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.