HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN

Diển trận thế công-chúa thi oai,

Náo miểu đường Đại-vương rớt mão.


Đây nói về chuyện vợ cũa Nguyễn-hửu-Thoại làcông-chúa Ngọc-Duệ là con thứ ba của vua Hưng-Tổ và là em ruột của đức Nguyễn-Ánh, công-chúanầy tuy là hình mai vóc liểu, nhưng mà lực trángthân cường, mặt trắng môi hồng, cặp mắt sáng nhưsao nháy, thật là một gái quốc sắc thiên hương,dung nhan đẹp đẽ, mà có tánh tình khẳng khái, lạithêm thông thuộc việc vỏ nghệ binh cơ.

Cong-chúa bình nhựt có tuyển lựa các vợ cũalính tráng, và chiêu mộ các gái trong thôn hương,từ 20 tuổi sắp lên, mỗi đứa đều vóc dạng mạnhmẽ, rồi lập một đội nử binh, hơn năm mươi người,đề theo hầu việc sai khiến.

Khi Nguyển-hửu-Thoại trấn tại Biên-hòa có hơntrót ngàn binh mã, kế nghe tin Nguyển-vương thấtthủ Saigon, và chạy về Mỷ-tho, thì Nguyển-hửu-Thoại bão công-chúa ở thủ đồn Bình-Hóa cũngthuộc tĩnh Biên-Hòa, rồi đem vài trăm quân tuốttheo hộ vệ đức Nguyển-vurơng chạy vào Rạch giá.

Đến lúc Nguyễn-hữu-Thoại phụng mạng Nguyển-vương qua Xiêm đặng cầu binh cứu viện, thì cóviết một phong thơ, rồi sai quân tâm phúc đem quaBiên-Hòa mà giao lại cho công-chúa khai khán.

Công-chúa liền dở thơ ra xem thấy trong thơnói như vầy:

« Trước khi sang qua Xiêm quốc, ta vội vàngcất bút tả bức thơ nầy, gởi lại hương khuê,[1]cho phu-nhơn tường lảm.

« Khi chúa-thượng thất thủ Saigon, thối binhchạy vào Rạch-giá, trong lúc đồ cùng thế nhược,khó bề đối lủy giao phong, các đạo cần-vương,[2]cũng đều lạc lài thất bại.

« Thật là hạc kêu tiếng gió, năm canh vía sỉ mơmàng, lũy sập thành tan, mấy trận hồn binhlạnh lẽo.

« Bởi thế, nên ta phãi phụng mạng sang Xiêm, cầu binh cứu viện, nắng mưa đất khách, non nướcdậm trường, dẫu rằng vạn khỗ thiên lao, ta cũngchẳng nài khó nhoc, vậy xin phu-nhơn ở nhà,gìn giữ thành trì, và bão toàn thân thể.

« Quân Tây-sơn đương lúc binh cường tướngdỏng, còn binh ta thì sức yếu thế cô, nếu chúngnó đem binh xâm lược Biên Hòa, thì phu-nhơnphãi kiếm nơi tỵ nạn đồn binh, chẳng nên cùngchúng nó tranh phong giao chiến.

« Hai ta tuy là xa cách nhau, kẽ phương trời ngườigóc biển; nhưng mà tấm lòng vẫn gần nhau, nhưkhi truớc ngỏ lúc bên phòng.

« Xin phu-nhơn trầm tư thẫm đoán, liệu lượngmà ứng biến tùy cơ, cho yên lòng kẽ trỗi bướcquang hà, ngàn trùng diệu vợi. »

Tiện phu NGUYỂN-HỮU-THOẠI cẩn ký


Công-chúa xem thơ rồi lại văn phòng lấy bútnghiên viết một phong thơ trã lời cho Nguyển-hữu-Thoại như vầy:

« Thiếp đặng tin phu-tướng phụng mạng sangXiêm, cầu binh cứu viện, cái tin ấy thiếp mớixem qua, thì chẳng xiết lo buồn, nhưng xét lại,thì vui mừng hớn hỡ, buồn là buông đôi ta phảiquang hà cách trở, nhạn bắc hồng nam, kẽ thìchiếc bóng song the, thãm nỗi phòng lang vắngvẽ: người thì một mình đất khách xiết bao mưanắng giải dầu.

« Nhưng mà, mừng là mừng trong lúc quốc bộgian nan, nước nhà hữu sự, mà được một ngườitrung thần kiệt sỉ như phu tướng, hết lòng vì nước, ra mà gánh một trách nhậm, rất khó nhọcrất nặng nề, tuy chưa biết kết cuộc thế nào,song cái phận làm thần tử như phu-tướng ngàynay, đối với xã-tắc, đối với sơn-hà, thì cũngđược gọi rằng một bực trung thần nghĩa sĩ.

« Vậy thiếp xin phu-tướng cất bớt cái lòng ái-tình phu phụ, mà đổi làm một khối ái quốc tinhthần, dẫu chúng ta cách xa nhau vạn thủy thiênsơn, cũng gìn giữ một tấm cang trường thiết thạch.

« Thiếp tuy là một gái thân bồ vóc liễu, nhưngcũng biết cái phận sự đối với nhà với nước thế nào.

« Nghĩ cho trong lúc loạn ly điên bái, quốc bộgian nan như vậy, làm một gái thượng lưu nhưthiếp, cũng nên dẹp cái nghề soi gương điễm phấnnơi chốn khuê phòng, mà học theo cái tài lướcđạn xông tên, trên đường hoạn nạn, chẳng lẽ cứtheo thói hẫn hờ lơ lãng, cũa phụ nữ thường tình,mà đễ cho tiếng đời chê rằng là bọn yếm mangquần vận.

« Vậy xin trên phu-tướng phải ra công phò nguytế khổn, hết sức cùng vua, dưới tiện thiếp cũngnguyện trải mật phơi gan, một lòng tiết nghỉa. »

Tiện thê NGỌC-DU công-chúa kỉnh bái.


Công-chúa viết thơ rồi phong lại và đưa cho tênquân nhơn bão phải lập tức đem về trao lại choNguyễn-hữu-Thoại.

Tên quân vâng lịnh lãnh thơ, rồi từ giã công-chúatrở về Rạch-giá.

Lúc bấy giờ công-chúa ỡ thủ đồn Bình-Hóa, thườngthường mổi bữa đem quân ra đồng diển dượt trận thế, khi thì vào rừng tập cách phục binh xạ tiển, lúcthì lên núi lập thế cứ hiểm đồn quân.

Công chúa có hai tên thể nữ, một đứa tên làHuỳnh Anh, một đứa tên là Bạch-Yến, hai đứa nầyvóc to sức mạnh, vỏ nghệ tinh thông, mổi khi công-chủa diển trận bài binh, thì hai thể-nữ ấy, cởi ngựamang gươm, rồi kéo đội nử binh ra đứng dàng hầuhai bên công-chúa.

Còn Công-chúa thì mình mặc một áo chiến bàosắc xanh, trước ngực có một chùm bông kết bằnglụa đỏ, đầu đội một mũ da cọp, trên mũ có dắt mộtcặp lông công, bên lưng đai một song thanh-kiếm,tay cầm một cây cờ sắc vàng, chung quanh có chạymột đường chơn rít, xem rất đẹp đẻ.

Công-chúa cởi một con chiến mã sắc hồng rất tốt,rồi ra giữa diển trường, khi giục ngựa chạy tới, lúchô quân thối lui, khi cầm kiếm chĩ huy, lúc phấtcờ truyền lịnh, còn các tam quân tướng sỉ, đâu đóbố trận liệt hàng, vát giáo cầm khiên, thảy đều tề tềchỉnh chỉnh.

Thật là một vị nữ-tướng đường đường diện mạo,lẩm lẩm dung nghi, như một vị thần-nử lai trần,như một bà Trưng-Vương xuất trận.

Khoan thai thay cho một gã Hồng nhan nương-tử, phất cờ giục trống, mỉa mai chim phụng múađường mây; diệu dàng thay cho một vẽ kiều mịphu-nhơn, cởi ngựa cầm thương, mường tượnghoa đào nghinh ngọn gió.

Bữa nọ công-chúa diển trận tập binh rồi trở vềđi ngang qua một cái núi, thấy ẩn ẫn trên núi, có một tòa miểu-võ lấp ló trong mấy cụm cây, Công-chúa liền truyền lịnh đình quân, đóng dưới chơnnúi, rồi dắc hai thể-nữ lên xem, hai bên đường chỉthấy cỏ hoa thưa thớt, đá liển chập chồng, chổ thấpnơi cao, lần lần trèo theo bực núi.

Khi lên tới sân, thấy miểu cất trên một bàn thạchrất to, bốn phía đều có cây cao bóng mát, cảnhđẹp non xinh, Công-chúa với hai thể nữ bước vào,thấy trước miểu có một tấm biển đá, khắc năm chữvàng: « Nam-Nhạc-Đại-Vương miểu » liền bướcvào trong xem coi, thấy chính giữa một tượngĐại-Vương rất lớn để ngồi trên ngai, mặt đen râucụt, áo mảo nghiêm-trang, trước cột có mấy đôiliển sơn son, và trên điện có màng treo chấn phủ.

Kế mấy người sau miểu chạy ra cúi đầu chàoCông-chúa.

Công-chúa liền bước lại hỏi rằng: các ngươi cóbiết sự-tích của Đại-Vương nầy làm sao không?

Mấy người ấy đáp rằng:

— Bẫm quới-nương, chúng tôi nghe nói Đại-vương nầy là gốc người Chiêm-thành khi trước,thật là anh linh hiển hích lắm, thường thường tronglúc trời thanh gió tịnh, hay là trong khi đêm vắngcanh khuya, thì Đại-vương hay hiện lên đứng trênđảnh núi sờ sờ, rồi đi trên ngọn cây, như mộtbóng đen thoãn qua thấm thoát, nếu ai gặp ngàimà không vái vang cúng tế, thì ngài vật chết vàlàm cho trong làng xóm không yên.

Bữa nọ ngài nhập cho một người ỡ làng nầylên đồng, xưng là « Nam-nhạc đại-vương » và bảolàng phải lập miễu phụng thờ, từ đó trong làng ai có việc chi cầu khẩn đến ngài, thì ngài đều phòhộ mách bảo, vì vậy nên nhơn dân trong xứ nầyai ai cũng đều sùng bái tin ngưởng ngài lắm.

Công-chúa nghe nói liền bảo người-từ ở giữmiểu ấy, sắm sữa hương đăng, và dộng chuôngđánh trống, rồi công-chúa bước ra đứng trướchương án cúi đầu ba cái, cầm hương dâng lên vàkhấn rằng:

« Tôi nghe rằng: sống làm một người trungthành nghĩa khí, thát làm một vị thần thánh anhlinh, bảo hộ người lành, trừng phạt kẽ dử, oailinh khắp cùng sơn nhạc, ân đức ra tột Hương-thôn, biết việc quá khứ tương lai, rỏ đều kiếthung họa phước.

« Tôi công-chúa Ngọc-Duệ là một gái thơ ngâyyếu đuối, gặp lúc nước nhà bác loạn, xả tắckhuynh nguy, thân nầy như cá trong ao, dườngchim mất bạn, chí muốn phò nguy cứu nạn, dẹpđãng nghịch thù, nhưng chẳng rõ việc lợi hạihung kiết ngày sau thế nào, nên đến đây cầuxin thần minh chỉ giáo

« Vậy nếu Đại-vương là đứng bực thánh thần,anh linh hiển hích, biết sự ký-vảng, rỏ việctương-lai, thì xin Đại-vương mách bảo việc kiếthung họa phước thế nào, cho tôi là Ngoc-Duệrỏ biết. Và Đại-vương cho tôi xin một keo thửcoi, như được thì ngài cho một sấp một ngữa,gọi rằng quẻ có âm-dương, còn không thì ngàicho hai miếng keo nầy đều ngữa ra hết ». Khấnrồi, công-chúa liền lấy hai miếng cây để trướchương án, hai tay xá một cái rồi quăng ngayxuống đất.

Hai miếng cây nhảy nhảy ít cái, rồi dựng đứngtrên mặt đất, không cái nào nằm hết.

Công-chúa lấy làm lạ và tự nghĩ rằng: thườngthường xin keo có thánh thần ứng nghiệm, thì chomột miếng ngửa một miếng sấp, ấy là quẽ có âmcó dương, mới gọi rằng được việc, nay cớ gì haimiếng cây lại đứng sửng trên đất, thế thì Đại-vương nầy không có linh nghiệm chăng? hay làmuốn cợt mình chăng?

Nghĩ vậy rồi công-chúa lượm hai miếng cây lên,và vái lầm thầm một chút rồi quăng xuống mộtlần nữa.

Hai miếng cây nhảy lên nhảy xuống ít cái, vàchạy một vòng, rồi cũng đứng sửng trơ trơ trênđất như nảy.

Công-chúa thấy thì lấy làm một sự quái gở phithường, tức thì lửa giận hừng lên, rồi thạnh nộvà rút gươm bên lưng ra chỉ ngay cái tượng ngồitrên ngai mà nói lớn rằng:

Ớ Nam-nhạc Đại-vương kia, ta nói cho ngươibiết, ta đã làm lễ khẫn vái cùng ngươi, xin hai keorồi mà không thấy ứng nghiệm chi hết. Vậy ta cũngdằn lòng nhẫn khí, mà xin thêm một keo thứ banữa, nếu không ứng nghiệm theo lời ta xin, thì rỏràng là ngươi chẳng phải một vị chánh trực linhthần, lẽ nào ngươi ở đây mà lạm thực hương hỏacủa nhân dân cúng tế.

Ta nói cho ngươi biết rằng: nếu ngươi không cóanh linh hiển hích, thì ta sẽ chém quách đầu ngươi,và phá nát miểu nầy, từ đây về sau, ta chẵng choai khói hương cúng quãy chi hết.

Mấy người đứng trước miểu nghe công-chúa nóilớn, không biết chuyện gì, ghé mắt dòm coi, thấycông-chúa sắc mặt phừng phừng, má đào ững ững,hai mắt trợn lên sáng hoắc như hai đốm tinh-quang,đôi mày dửng lên cong vòng như hai vành bán-nguyệt, coi bộ hầm hầm khí sắc, rút gươm chỉ ngaymặt Đại-vương, thì thất kinh rồi xầm xĩ cùngnhau, lắt đầu le lưởi và nói: trời ôi! nàng ấy dữquá, sao dám xĩ mạ Đại-vương? không sợ chết sao?

Còn công-chúa nói rồi, liền lấy hai miếng cây,cầm nơi tay đập xuống hương án cái bốp, ngó lườmlườm cái tượng Đại vuơng, và nói cách nghiêmnghị rằng:

Đại-vương, ngươi phải biết lần nầy là lần thứba mà ta cầu khẫn ngươi đây, nếu ngươi muốn ngồivững trên ngai, và muốn toạ hưởng trong miễu nầylâu dài, thì ngươi phãi ứng vào keo thứ ba, ta sẽxin cùng ngươi đây; bằng không, thì đầu ngươi sẽvăng ngay xuống đất, nói rồi cầm hai miếng câyliệng xuống một cái, thì thấy một miếng ngửa mộtmiếng sấp, bổng nghe phía trong vật chi rớt xuốngcái cãn, ngó lại thì thấy cái mảo sắt của Đại-vươngđương đội trên đầu, thinh không đã rớt ngay xuốngđất, người từ trong miểu thấy thì cã kinh, lật đậtlượm mão đem lại để trên hương-án rồi vập đầuxuống đất cồm cộp vừa lạy vừa vái lầm thầm rằng:

Cầu xin Đại-vương bớt giận bớt giận.

Tôi là thằng Từ giử miếu cho đại-vương bấy lâutôi nhờ cái oai thế đại-vương mà làm nghề buônghương bán khói, đánh trống dộng chuông, đăng kiếmtiền chi độ vợ con, tôi không dám xúc phạm đại-vương đều chi, xin đại-vương đừng giận lây tới tôi,tội nghiệp tội nghiệp, cầu đại-vuong bớt giận bớt giận.

Trong ý tên từ nầy ngỡ là đại-vương giận mànộ phát xung quang,[3] chớ chăng dè Đại-vuongthất kinh mà rớt mão.

Lúc bấy giờ công-chúa thấy xin keo được, thìday lại nói với hai tên thể-nữ rằng:

Keo này có dương có âm, thì quẽ đã ứng nghiệm,vậy thì chúng ta hảy xuống núi trở về, nói rồi cãba người dắc nhau đi ra, kéo quân về trại.

Mấy người trong miểu lật đật bưng mão đemlại đội lên cho Đại vương và nói cùng nhau rằng:

Người gái ấy không biết ở đâu, làm chức chi màcoi bộ ngang tàng quá quắc, dám xúc phạm xĩ mạĐại-vương, thế thì người gái ấy điên hay sao, nênmới dám cã gan như vậy? chừng sau hõi lại mớibiết là công-chúa Ngọc-Duệ, là chánh thất cũaquan chưỡng-dinh Nguyển-hữu-Thoại, nàng đi diễntrận hành binh, thấy miễu thì ghé lại xin keothí nghiệm. Thi rằng:

Hởi bạn quần-xoa phải biết mình,
Hể là đức trọng quĩ thần kinh,
Xưa nay những gái anh hùng thế,
Danh giá lưu truyền quán sử xanh,



Cũng tiếng ông thần chức đại-vương,
Cớ sao ghẹo chọc gái cang cường.
Hồn mê thế đã quên danh vị,
Chút nữa đầu rơi trước miểu đường.


(Xin coi tiếp cuốn thứ năm)

  




Chú thích

  1. Hương khuê, là chổ khuê phòng của đàn bà.
  2. Cần-vương là đạo binh theo cứu giúp vua.
  3. Nộ phát xung quang là giận mà dửng tóc lên đến nỗirớt mão.