Trần Quý Kiên (1911-1965) là một nhà cách mạng Việt Nam, ( bị thực dân Pháp giam cầm 11 năm tù).
Ông thuộc lớp đảng viên đầu tiên và cũng là lớp lãnh đạo sớm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ Bí thư Thành ủy Hà Nội -Thường Vụ xứ ủy Bắc Kỳ(1938-1940),Bí thư Đảng ủy căn cứ địa trung ương ATK Việt Bắc 1949, Thứ trưởng - Phó văn phòng Thủ tướng 1950
(khi Hồ Chí Minh là thủ tướng chính phủ), Phó Ban Tổ chức TƯ. Bí thư đầu tiên của Đảng ủy khối các cơ quan trung ương.Ông được nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng cao quý nhất của Việt Nam.
Ông tên thật là Đinh Xuân Nhạ (bí danh :Trần Quý Kiên, Dương Văn Ty). Sinh năm 1911 tại Bến Nứa, Hà Nội. Quê gốc là dòng họ Đinh Xuân ở làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội).
Vào đảng 5/1930, Ông là một trong ba đảng viên đầu tiên của Đội Tuyên truyền xung phong (là Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội sau này). 11/10/1930 Ông trách một nhóm tuyên truyền vào dịp kỷ niệm lần thứ 13 Cách mạng Tháng Mười Nga ,Ông bị thực dân Pháp truy lùng và bắt giam, tuyên án 10 năm tù khổ sai tại Nhà tù Hỏa Lò và Nhà tù Sơn La
8/1936 Ra tù ông cùng Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Văn Minh thành lập Ủy ban sáng kiến là cơ quan lãnh đạo lâm thời của Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội. 3/1937 ông cùng các đồng chí tái thành lập lại Xứ Ủy Bắc Kỳ, Thành ủy Hà Nội.Rồi thành lập liên Xứ Ủy Bắc Kỳ-Bắc Trung Kỳ 11/1937. Ông cùng đ/c Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Linh...tham gia tái lập Thành uỷ Hải Phòng 4/1937.Năm 1938 Ông trực tiếp về thành lập chi bộ đảng đầu tiên của tỉnh Sơn Tây&Hà Đông.
Giai đoạn 4/1938-6/1940, Ông là Bí Thư Thành ủy Hà Nội, rồi vào ban lãnh đạo cao nhất là Ban Thường vụ Xứ Ủy Bắc Kỳ với Hoàng Văn Thụ và Lương Khánh Thiện sau đó Ông bị Pháp bắt lần thứ hai. Tháng 3/1945 Ông vượt ngục.
4/1945 Ông là Bí thư Chiến khu Quang Trung (Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa) và hai tỉnh Sơn La và Lai châu với bí danh Dương Văn Ty. Tới tháng 9 và tháng 10/1945 thì trực tiếp lãnh đạo giải phóng hai tỉnh Sơn La, Lai Châu.
Cuối năm 1946 do sức khỏe yếu, ông về làm Bí thư tỉnh Quảng Yên, rồi Uỷ viên thường vụ Liên Khu 3, phụ trách liên tỉnh Hải Dương - Hưng Yên và Kiến An - Thái Bình. Tới năm 1948 thì làm Trưởng ban Kiểm tra Đảng ủy LK3 (gồm 12 tỉnh đồng bằng bắc bộ và 1 tỉnh miền núi là Hoà Bình)
Tháng 7/1949 ông phụ trách xây dựng ban Căn cứ địa TƯ, làm Bí thư Đảng ủy ATK Việt Bắc (gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang).
Tháng 11/1950 ông giữ chức Bí thư đầu tiên của đảng ủy Khối các cơ quan Dân Chính Đảng TƯ đồng thời là Thứ trưởng - Phó văn phòng Thủ tướng chính phủ.Tháng 4/1951 ông được bổ nhiệm là Phó Trưởng ban Tổ chức TƯ Đảng.
Cuối năm 1952, do bệnh nặng sau nhiều năm hoạt động cách mạng liên tục, ông được Đảng và Chính phủ đưa đi chữa bệnh ở nước ngoài một thời gian dài. Khi về nước, ông nhận trách nhiệm thay mặt Chủ tịch nước và Thủ tướng đi điều tra sửa sai trong công tác cải cách ruộng đất tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Năm 1958 ông là Bí thư Đảng Đoàn, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Thủy lợi và điện lực.
Ông mất tại Hà Nội năm 1965 do bệnh nặng.
Tên ông được đặt cho 4 con đường tại 4 thành phố lớn của đất nước : Tại Hà Nội.Thành phố Hồ Chí Minh.Thành phố Đà Nẵng và kinh thành Huế.
Vợ ông là bà Lê Thị Tấn (tức Nguyễn Thị Đáp). Bà đã một mình thay ông đùm bọc nuôi dạy sáu người con trưởng thành khôn lớn. Bà cũng là một chiến sĩ cách mạng được trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huy chương Kháng chiến hạng nhất và Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Trần Quý Kiên, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.