Nhóm ngôn ngữ Việt hay Nhóm ngôn ngữ Việt-Chứt là một nhánh của ngữ hệ Nam Á.
Trước đây người ta còn gọi Nhóm ngôn ngữ này là Việt-Mường, Annam-Muong, Vietnamuong, nhưng hiện nay nói chung các tên gọi này được dùng để chỉ phân nhánh của Nhóm ngôn ngữ Việt Mường, trong đó chỉ bao gồm tiếng Việt và tiếng Mường.
Nhóm ngôn ngữ Việt | |
---|---|
Phân bố Nhóm Ngôn Ngữ Việt địa lý | Đông Dương |
Phân loại Nhóm Ngôn Ngữ Việt ngôn ngữ học | Nam Á
|
Ngôn ngữ Nhóm Ngôn Ngữ Việt nguyên thủy: | Việt-Chứt nguyên thủy |
Ngôn ngữ Nhóm Ngôn Ngữ Việt con: |
|
Glottolog: | viet1250 |
Nhóm ngôn ngữ Việt |
Tiếng Việt ngày nay đã có ảnh hưởng đáng kể từ tiếng Trung Quốc, đặc biệt là về từ vựng và hệ thống thanh điệu. Từ Hán-Việt chiếm khoảng 30-60% số vốn từ vựng tiếng Việt, không bao gồm từ mượn từ Trung Quốc.
Nơi phát tích của Nhóm ngôn ngữ Việt thường được cho là Bắc Bộ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều luồng ý kiến trái chiều xoay quanh vấn đề này. Chamberlain James R., dựa trên cơ sở sự đa dạng ngôn ngữ, cho rằng Nhóm ngôn ngữ Việt có lẽ phát tích từ khu vực các tỉnh Bolikhamsai, Khammouane ở Lào và Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình ở Việt Nam ngày nay. Chiều sâu lịch đại của Nhóm ngôn ngữ Việt cũng đã phải ít nhất nằm trong khoảng 2.500-2.000 năm (theo Chamberlain 1998); 3.500 năm (theo Peiros 2004); hoặc tầm 3.000 năm (theo Mark 2020). Dù vậy, khảo cổ học đã chứng minh rằng trước thời Đông Sơn, cư dân châu thổ sông Hồng chủ yếu là người Nam Á: dữ liệu di truyền từ khu mộ Mán Bạc thuộc văn hóa Phùng Nguyên (có niên đại 1.800 TCN) rất gần với người nói tiếng Nam Á hiện đại; trái lại, "di truyền lai hợp" từ di chỉ Núi Nấp thuộc văn hóa Đông Sơn lại có mối liên hệ với "người Đài từ Trung Quốc, người nói tiếng Tai-Kadai từ Thái Lan, và người nói tiếng Nam Á từ Việt Nam, bao gồm cả người Việt"; do đó, "con đường di cư của Vietic nhiều khả năng là xuống phía nam từ đồng bằng sông Hồng, chứ không phải là lên bắc. Sự đa dạng ngôn ngữ ở phía nam sẽ cần những lời giải thích khác."
Tiếng Việt được nhận dạng là một ngôn ngữ Nam Á vào giữa thế kỷ XIX với nhiều bằng chứng rất thuyết phục. Ngày nay, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm tiết giống như tiếng Quảng Đông hay tiếng Thái và đã mất nhiều đặc điểm âm vị-hình vị của ngôn ngữ Nam Á nguyên thủy. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, tiếng Việt đã vay mượn rất nhiều từ vựng của tiếng Hán lẫn các loại tiếng Thái. Chính vì sự tiếp xúc ngôn ngữ lâu dài này nên việc phân loại tiếng Việt gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, những đặc điểm này chỉ là bề ngoài, là kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ. Hiện vẫn có những nhà nghiên cứu không đồng tình với ý kiến phân loại tiếng Việt vào cùng nhóm với tiếng Khmer; nhưng giới chuyên gia hiện nay hầu như coi cách phân loại Môn-Khmer là chính thống.
Chamberlain (1998) cho rằng khu vực đồng bằng sông Hồng ban đầu là địa bàn cư trú của người Tai; còn người nói tiếng Việt di cư lên từ vùng Bắc Trung Bộ vào giữa thế kỷ VII - thế kỷ IX Công nguyên, bởi lẽ vùng Bắc Trung Bộ là nơi có rất nhiều phương ngữ Việt bảo thủ về mặt ngữ âm. Vì vậy, nơi phát tích của người Việt (và Việt-Mường tổ tiên) là ở phía nam sông Hồng.
Mặt khác, Ferlus (2009) cho thấy rằng các phát minh đặc trưng của văn hóa Đông Sơn như chày, chèo và chõ dùng để đồ xôi, tương ứng với các đổi mới từ vựng trong nhánh Bắc Vietic (Việt–Mường) và nhánh Trung Vietic (Cuối-Chăm). Các danh từ mới để chỉ các phát minh này phái sinh từ gốc động từ chứ không phải là từ mượn. Sự phân bố hiện nay của Bắc Vietic cũng tương ứng với khu vực văn hóa Đông Sơn. Do đó, Ferlus kết luận rằng người Bắc Vietic (Việt-Mường) là hậu duệ trực tiếp của người Đông Sơn, tức là những người đã cư trú ở phía nam đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ từ thiên niên kỷ 1 TCN.
Ngoài ra, John Phan (2013, 2016) cho rằng một thứ tiếng gọi là "Hán ngữ trung cổ An Nam" (Annamese Middle Chinese) từng có mặt ở thung lũng sông Hồng và sau này bị hấp thụ vào tiếng Việt-Mường nguyên thủy. Tiếng Hán trung cổ An Nam là một phần của dãy phương ngữ tiếng Hán trung cổ vùng tây nam Trung Quốc, sau này "đa dạng hóa" thành tiếng Hán Ngõa Hương, tiếng patois Cửu Đô Thổ Thoại 九都土話 của Hạ Châu, Tiếng Bình phương nam, và các phương ngữ tiếng Tương của Trung Quốc (ví dụ: Tương Hương 湘鄉, Lô Khê 瀘溪, Kỳ Đông 祁東, và Tuyền Châu 全州). Phan (2013) liệt kê ba loại từ Hán-Việt chính, được vay mượn ở các thời đại khác nhau:
Chamberlain (1998) liệt kể các địa điểm sau đây tại Lào có người nói tiếng thuộc chi Việt:
Ở Việt Nam, một số tộc người miền núi nói tiếng Vietic (bao gồm Arem, Rục, Maliêng và Mày) được tái định cư ở Cu Nhái (phía tây tỉnh Quảng Bình hoặc phía tây nam của huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). Dân tộc Sách có cư trú trên đất Việt Nam.
Bảng sau đây liệt kê lối sống của các nhóm dân tộc Vietic. Không giống như các nhóm dân tộc Tai lân cận, nhiều nhóm Vietic không có thuật canh tác lúa nước:
Lối sống | Nhóm Vietic |
---|---|
Du mục hái lượm theo bộ lạc | Atel, Thémarou, Mlengbrou, (Cheut?) |
Ban đầu là những nhà buôn, nhưng sau càng dựa vào lối canh tác đốt rừng làm rẫy | Arao, Maleng, Malang, Makang, Tơe, Ahoe, Phóng |
Canh tác kiểu đốt rừng làm rẫy, cứ 2–3 năm lại luân phiên thay làng | Kri |
Định canh ruộng nước lẫn đốt rừng làm rẫy | Ahao, Ahlao, Liha, Phong (Chăm), Toum |
Việc phát hiện ra tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, thanh điệu của nó là sự phản tỉnh bình thường các đặc điểm phi thanh điệu trong các ngôn ngữ còn lại của ngữ hệ được coi là một cột mốc quan trọng trong sự phát triển của ngôn ngữ học lịch sử. Nhóm ngôn ngữ Việt cho thấy một phạm vi loại hình từ loại hình tiếng Trung hoặc tiếng Thái, đến loại hình ngôn ngữ Môn-Khmer điển hình, bao gồm hệ thống thanh điệu và tạo âm phức tạp hay từ trộn; kiểu âm tiết CVC hoặc CCVC; đơn âm tiết, đa âm tiết và kiểu hình đơn lập hay kết hợp.
Paul Sidwell đề xuất sơ đồ phân loại dưới đây, với các nhánh phân kì nhất được liệt kê trước tiên.
Nhóm Thavưng–Malieng vẫn giữ nhiều đặc điểm âm vị và từ vựng rất cổ xưa, còn nhóm Chứt dung hòa hai âm cuối *-r và *-l thành *-l cùng với các ngôn ngữ phía bắc.
Chamberlain (2018:9) sử dụng thuật ngữ Kri-Mol để chỉ nhánh Vietic, và cho rằng có hai nhánh tách rời lớn, đó là Mol-Toum và Nrong-Theun. Chamberlain (2018:12) đưa ra cây phân loại sau đây.
Dựa trên các nghiên cứu so sánh của Ferlus (1982, 1992, 1997, 2001) và các nghiên cứu tiếng Mường mới đây của Phan (2012), Sidwell (2015) chỉ ra rằng tiếng Mường là nhóm cận ngành và là phân nhóm của nhóm Việt. Sidwell (2015) đề xuất cây phân loại nội nhóm Vietic như sau.
Vietic
Cây phân loại sau dựa theo Chamberlain (2003:422), trích từ Sidwell (2009:145). Không giống các phân loại cũ, có một nhánh "Nam" thứ sáu bao gồm tiếng Kri, một ngôn ngữ mới được mô tả lúc bấy giờ.
Tài liệu tiếng Rục, Thavưng và Thổ được lấy từ SEAlang Projects.
Ngôn ngữ Nhóm Ngôn Ngữ Việt nguyên thủy (Proto-Vietic) | Tiếng Việt | Tiếng Mường | Tiếng Rục | Tiếng Thavưng | Tiếng Thổ (Cuối Chăm) |
---|---|---|---|---|---|
*b-ləːj | trời | blời/tlời | pləːj² | - | bləːj¹ |
*ɓaːlʔ | mái | bảl | ɓaːl³ | - | maːj³ |
*k-ceːt | chết | chít | kəciːt⁷ | cəːt⁷ | ceːt⁷ |
*ɗam | (số) năm | đăm/đằm | dam¹ | dam¹ | dam¹ |
*ʔiːt | ít | ít | ʔit⁷ | ʔiːt⁷ | ʔiːt⁷ |
*k-lɔːŋ | (bên) trong | tlong | klɔːŋ¹ | kʰəlɔːŋ¹/lɔːŋ¹ | klɒːŋ¹ |
*kʰɔːjʔ/*k-hɔːjʔ | khói | khỏi | kəhɔːj³ | kəhɔːj³ | kʰɒːj³ |
*kuːs/guːs | củi | cúi | kuːrʰ¹ | kuːjʰ¹ | kuːl⁶ |
*m-laɲ | nhanh/ lanh | nhanh/ lanh | laɲ¹ | - | læŋ¹ |
*muːs | mũi | mũi | muːlʰ¹ | muːjʰ¹ | muːl⁶ |
*-naŋʔ | nặng | nẵng | naŋ⁶ | nâ̰ŋ | naŋ³ |
*p-leːʔ | trái [quả] | plải/tlải | pəliː³ | pʰaləː³ | pleː³ |
*poːŋ | bông [hoa] | pông | - | poːŋ¹ | pɔːŋ¹ |
*pʰaː | pha (trộn) | pha | pʰaː¹ | - | pʰaː¹ |
*tʰəh | thở | thớ/sớ | - | tʰəː⁵ | |
*tɔh | đỏ | tó | tɔh¹ | tɔh¹ | - |
*tiː | đi | đi/ti | tiː² | tiː² | tiː² |
Michel Ferlus (1992, 2013) phát hiện rằng tên của 12 con giáp trong lịch Khmer (cũng chính là nguồn gốc của 12 con giáp trong lịch Thái) được vay mượn từ một dạng Việt-Mường bảo thủ về mặt ngữ âm. Ferlus cho rằng 12 con giáp Khmer có nguồn gốc từ một ngôn ngữ Việt-Mường nào đó (tức nhánh Bắc Vietic), chứ không phải từ một ngôn ngữ Nam Vietic, vì nguyên âm của từ "rắn" m.saɲ trong tiêng Khmer cổ tương ứng với âm /a/ của Việt-Mường chứ không phải âm /i/ của Nam Vietic.
Con giáp | Tiếng Thái Lan | Tiếng Khmer IPA | Tiếng Khmer hiện đại | Tiếng Khmer kỳ Angkor | Tiếng Khmer cổ | Việt-Mường nguyên thủy | Tiếng Việt | Tiếng Mường | Tiếng Cuối | Tiếng Kri |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
鼠 Tý | Chuat (ชวด) | cuːt | jūt (ជូត) | ɟuot | ɟuot | *ɟuot | chuột | chuột /cuot⁸/ | - | - |
牛 Sửu | Chalu (ฉลู) | cʰlou | chlūv (ឆ្លូវ) | caluu | c.luː | *c.luː | trâu | tlu /tluː¹/ | kluː¹ | săluː² |
虎 Dần | Khan (ขาล) | kʰaːl | khāl (ខាល) | kʰaal | kʰa:l | *k.haːlˀ | khái | khảl /kʰaːl³/ | kʰaːl³ | - |
兔 Mão | Thɔ (เถาะ) | tʰɑh | thoḥ (ថោះ) | tʰɔh | tʰɔh | *tʰɔh | thỏ | thó /tʰɔː⁵/ | tʰɔː³ | - |
龍 Thìn | Marong (มะโรง) | roːŋ | roṅ (រោង) | marooŋ | m.roːŋ | *m.roːŋ | rồng | rồng /roːŋ²/ | - | roːŋ¹ |
蛇 Tỵ | Maseng (มะเส็ง) | mə̆saɲ | msāñ' (ម្សាញ់) | masaɲ | m.saɲ | *m.səɲˀ | rắn | thẳnh /tʰaɲ³/ | siŋ³ | - |
馬 Ngọ | Mamia (มะเมีย) | mə̆miː | mamī (មមី) | mamia | m.ŋɨa | *m.ŋǝːˀ | ngựa | ngữa /ŋɨa⁴/ | - | măŋəː⁴ |
羊 Mùi | Mamɛɛ (มะแม) | mə̆mɛː | mamæ (មមែ) | mamɛɛ | m.ɓɛː | *m.ɓɛːˀ | - | bẻ /ɓɛ:³/ | - | - |
猴 Thân | Wɔɔk (วอก) | vɔːk | vak (វក) | vɔɔk | vɔːk | *vɔːk | voọc | voọc /vɔːk⁸/ | vɔːk⁸ | - |
雞 Dậu | Rakaa (ระกา) | rə̆kaː | rakā (រកា) | rakaa | r.kaː | *r.kaː | gà | ca /kaː¹/ | kaː¹ | kaː¹ |
狗 Tuất | Jɔɔ (จอ) | cɑː | ca (ច) | cɔɔ | cɔː | *ʔ.cɔːˀ | chó | chỏ /cɔː³/ | cɔː³ | cɔː³ |
豬 Hợi | Kun (กุน) | kao/kol | kur (កុរ) | kur | kur | *kuːrˀ | cúi | củi /kuːj³/ | kuːl⁴ | kuːl⁴ |
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Nhóm ngôn ngữ Việt, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.