Thanh Hóa là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Lịch sử hành chính Thanh Hóa phản ánh quá trình thay đổi địa danh và địa giới hành chính của tỉnh Thanh Hóa từ thời kỳ dựng nước cho tới hiện đại.
Địa phận Thanh Hóa vào thời Văn Lang gồm bộ Quân Ninh và phần lớn bộ Cửu Chân. Bộ Quân Ninh chính là khu vực các huyện Cẩm Thủy, Thạch Thành, Hà Trung, Bỉm Sơn của Thanh Hóa và gần toàn bộ tỉnh Ninh Bình ngày nay (trừ huyện Kim Sơn), còn bộ Cửu Chân gồm phía nam Thanh Hóa và bắc Nghệ An.
Thời kì thuộc nhà Hán, Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân. Quận Cửu Chân vào đầu thời kì thuộc Hán gồm có bảy huyện là Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Thời Hậu Hán, quận Cửu Chân gồm năm huyện là Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công (Vô Thiết), Vô Biên. Trong đó, huyện Hàm Hoan tương ứng với Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay còn huyện Vô Công hay Vô Thiết tương ứng với các huyện Gia Viễn, Nho Quan, Yên Khánh, nói cách khác là gần như toàn bộ tỉnh Ninh Bình ngày nay (trừ huyện Kim Sơn).
Quận trị của quận Cửu Chân là thành Tư Phố, thuộc huyện Tư Phố ở hữu ngạn sông Mã, nay là khu vực làng Ràng, xã Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa. Huyện Dư Phát nằm ở khu vực Lạch Trường, thời đó là cửa chính của sông Mã, ở về phía tả ngạn, nay là các huyện Hậu Lộc và Nga Sơn. Huyện Vô Biên nay là các huyện Vĩnh Lộc, Thạch Thành và Bỉm Sơn, Hà Trung, trị sở nằm ở khu vực thành nhà Hồ. Huyện Đô Lung nằm ở thượng lưu sông Mã, nay là khu vực từ huyện Cẩm Thủy ngược lên phía tây bắc. Huyện Tư Phố nằm ở tả ngạn sông Bồn Giang (sông Nhà Lê), nay thuộc các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Hoằng Hóa và phía bắc huyện Đông Sơn, phía bắc huyện Quảng Xương, phần lớn thành phố Thanh Hóa và thành phố Sầm Sơn. Huyện Cư Phong nằm ở hữu ngạn sông nhà Lê, nay thuộc huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn, Nông Cống, phần lớn các huyện Đông Sơn và Quảng Xương. Huyện trị Cư Phong có thể ở khu vực Bất Căng Trung Vực thuộc huyện Thọ Xuân ngày nay.
Thời Tam Quốc, nhà Đông Ngô trực tiếp cai trị, tách quận Cửu Chân thành hai quận: Cửu Chân và Cửu Đức. Quận Cửu Chân lúc này gồm đất Thanh Hóa ngày nay và một phần phía nam Ninh Bình. Cửu Chân được chia làm 6 huyện: Tư Phố, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Phù Lạc (hay Phú Lạc), Thường Lạc. Sang thời nhà Tấn, lập thêm huyện Tùng Nguyên, nâng lên tổng số 7 huyện.
Huyện Tư Phố vẫn giữ như thời Hán. Huyện Di Phong là huyện Cư Phong đời Hán. Huyện Kiến Sơ và huyện Phú Lạc ngày nay có thể là khu vực Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Hà Trung, Bỉm Sơn, tức là tương ứng với huyện Vô Biên thời Hán. Huyện Thường Lạc ngày nay là khu vực huyện Tĩnh Gia, có thể bao gồm cả khu vực phía nam huyện Nông Cống ngày nay, vốn được chuyển về từ huyện Tĩnh Gia vào năm 1964. Huyện Tùng Nguyên được tách ra từ huyện Kiến Sơ vào thời nhà Tấn, ngày nay có thể là khu vực Nông Cống, Như Xuân, Như Thanh. Huyện Trạm Ngô chưa rõ vị trí.
Thời nhà Tống, đất Thanh Hóa cùng với phía nam Ninh Bình vẫn là quận Cửu Chân, gồm các huyện cũ thời Tấn (Tư Phố, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Phù Lạc, Thường Lạc, Tùng Nguyên) và thêm các huyện: Cao An, Quân An, Vũ Ninh, Ninh Di, trong đó huyện Cao An được tách ra từ huyện Thường Lạc
Thời nhà Tề, huyện Ninh Di bị giải thể, huyện Đô Lung (có từ thời Hán) đổi làm huyện Cát Lung. Thời nhà Lương, các quận được đổi hoặc chia thành các châu, quận Cửu Chân được Lương Võ đế đổi thành Ái Châu.
Thời nhà Tùy, Ái Châu được đổi lại là quận Cửu Chân, gồm các huyện: Tư Phố, Long An, Quân An, An Thuận và Nhật Nam. Huyện Tư Phố vẫn là huyện cũ từ thời nhà Hán, Tam quốc, Lưỡng Tấn và Nam Bắc triều. Huyện Nhật Nam ở phía đông bắc quận Cửu Chân, như vậy không chỉ bao gồm khu vực Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Hà Trung như Đào Duy Anh nhận định, mà còn gồm cả các huyện Hậu Lộc, Nga Sơn và thị xã Bỉm Sơn (Thanh Hóa) và phía nam Ninh Bình. Huyện Quân An: ngày nay là khu vực Yên Định, Thiệu Hóa. Huyện Long An có thể ở khu vực Hoằng Hóa, Quảng Xương (và cả thành phố Sầm Sơn, một phần thành phố Thanh Hóa) ngày nay. Huyện An Thuận vốn là huyện Thường Lạc thời Tấn, nay là khu vực huyện Tĩnh Gia và có thể cả phía nam Nông Cống.
Năm Vũ Đức thứ 5 (622), nhà Đường đổi quận Cửu Chân thành Ái Châu Cửu Chân quận, thường gọi là Ái Châu, thuộc Giao Châu đại tổng quản phủ. Nhà Đường tách phần đất của Cửu Chân thuộc Ninh Bình ngày nay để lập Trường Châu Văn Dương quận, năm 758 đổi thành Trường Châu. Ái Châu gồm bốn huyện là Cửu Chân, Tùng Nguyên, Dương Sơn, An Thuận, tại biên giới của Ái Châu lại đặt 7 châu: Tích, Thuận, Vĩnh, Tư, Tiền, Chân và Sơn. Sau đó đổi Vĩnh Châu làm Đô Châu, Tích Châu thành châu Nam Lăng, rồi lại gộp Đô Châu vào Tiền Châu, gộp Chân Châu và Tư Châu vào châu Nam Lăng, tiếp đó đổi An Châu thành huyện Long An, đổi Sơn Châu thành huyện Kiến Sơ.
Năm Thiên Bảo thứ 1 (742), đổi Ái Châu Thành quận Cửu Chân như cũ, năm Càn Nguyên thứ 1 (758) lại đổi về Ái Châu. Huyện Cửu Chân có thể tương ứng với huyện Tư Phố của các đời trước. Huyện An Thuận vốn có từ đời Tùy, năm 622 đặt là Thuận Chân, gồm cả các huyện Đông Hà, Kiến Xương, Biên Hà, năm 627 gộp lại thành An Thuận, ngày nay là khu vực huyện Tĩnh Gia. Huyện Sùng Bình vốn là huyện Long An đời Tùy, năm 622 chia thành An Châu và Sơn Châu, năm 627 đổi tương ứng thành Long An và Kiến Sơ. Năm 712, đổi Long An thành Sùng An và năm 757 lại đổi thành Sùng Bình, ngày nay là khu vực huyện Quảng Xương (và thành phố Sầm Sơn). Huyện Quân Ninh vốn là huyện Quân An đời Tùy, năm 622 đặt thêm huyện Vĩnh Châu, năm 624 đổi Vĩnh Châu thành Đô Châu, năm 627 nhập vào châu Nam Lăng. Phần còn lại của huyện Quân An được đổi thành Quân Ninh vào năm 757, nay là khu vực huyện Yên Định. Huyện Nhật Nam giữ như thời Tùy. Huyện Trường Lâm vốn là khu vực huyện Vô Biên đời Hán.
Nhà Đinh và Tiền Lê gọi là đạo Ái Châu. Nhà Lý thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu. Lý Công Uẩn chia cả nước thành 24 lộ, trong đó có Thanh Hóa lộ, (Thanh: trong sạch; Hoá: biến hoá). Tên gọi Thanh Hoá bắt đầu có từ đây. Năm 1029, nhà Lý đổi làm phủ Thanh Hoá, dời lỵ sở từ Đông Phố đến Duy Tinh (vùng đất các xã Văn Lộc, Mỹ Lộc, Thuần Lộc huyện Hậu Lộc ngày nay)[cần dẫn nguồn]. Ruộng đất Thanh Hoá bắt đầu bị nhà vua lấy ban cho các đại thần dưới dạng phong ấp. Đó chính là chế độ phong kiến hình thành ở nước ta.
Năm 1242, vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ đời Lý thành 12 lộ, trong đó có Thanh Hóa phủ lộ.
Năm 1397 (năm Quang Thái thứ 10, đời vua Trần Thuận Tông), Lê Quý Ly làm phụ chính thái sư, cho đổi Thanh Hóa phủ lộ làm trấn Thanh Đô. Trấn Thanh Đô lúc này gồm 7 huyện và 3 châu (mỗi châu có 4 huyện):
Trong đó, 7 huyện là:
Ba châu bao gồm:
Năm 1430, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên Xương. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: "Phủ này (tức phủ Thiên Xương) cùng Cửu Chân và Ái Châu làm "tam phủ" gọi là "Tây Đô".
Năm 1407, nhà Minh đổi phủ Thiên Xương trở lại làm phủ Thanh Hóa như cũ, đặt thêm hai huyện: Lôi Dương, Thụy Nguyên. Về địa giới vẫn không đổi. Sách "Đại Nam nhất thống chí" cũng ghi: "Thời thuộc Minh lại làm phủ Thanh Hóa, lãnh 4 châu là Cửu Chân, ái Châu, Thanh Hóa, Quỳ Châu và 11 huyện". Trong đó, 11 huyện là Yên Định, Nông Cống, Vĩnh Ninh, Tống Giang, Cổ Đằng, Nga Lạc, Lương Giang, Lỗi Giang, Đông Sơn, Yên Lạc, Cổ Lôi. Cùng với việc đổi tên phủ vào năm 1407, một số huyện cũng được đổi tên: huyện Cổ Chiến đổi làm huyện Cổ Bình, huyện Thống Bình đổi làm huyện Thống Ninh.
Năm 1415, nhà Minh sáp nhập huyện Cổ Hoằng vào huyện Cổ Đằng, sáp nhập huyện Hà Trung với huyện Thống Ninh của châu Ái, huyện Duyên Giác với huyện Kết Duyệt (sửa lại là Kết Thuế) của châu Cửu Chân. Năm 1417, sáp nhập châu Quy của phủ Diễn Châu (mới giải thể năm 1415) vào phủ Thanh Hóa.
Năm 1419, sáp nhập huyện Yên Định vào huyện Vĩnh Ninh, huyện Lương Giang vào huyện Cổ Lôi, huyện Đông Sơn vào huyện Cổ Đằng, sáp nhập huyện Yên Lạc của châu Thanh Hóa vào bản châu (trực thuộc châu này), sáp nhập huyện Lỗi Giang của châu Thanh Hóa vào huyện Nga Lạc cùng thuộc châu này, sáp nhập huyện Tống Giang của châu Ái vào bản châu, sáp nhập huyện Nông Cống của châu Cửu Chân vào bản châu.
Năm Thuận Thiên thứ nhất (năm 1428), Lê Thái Tổ chia cả nước làm 5 đạo, Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo. Trong niên hiệu Thuận Thiên, Thanh Hóa gồm các huyện: Ứng Thụy, Bình Giang... Năm Thiệu Bình thứ 2 (năm 1435), đất Thanh Hóa gồm 6 phủ là Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia, Thanh Đô, Trường Yên, Thiên Quan. Trong đó phủ Hà Trung kiêm lý huyện Thuần Hựu và thống hạt 3 huyện là Tống Giang, Nga Sơn và Hoằng Hóa.
Năm Quang Thuận thứ 7 (năm 1466), Lê Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo Thừa tuyên, trong đó có Thừa tuyên Thanh Hóa, đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu. Cùng năm, trích 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan sáp nhập vào Sơn Nam. Thừa tuyên Thanh Hóa lúc này gồm 4 phủ, 16 huyện và 4 châu, trong đó có phủ Tĩnh Ninh. Năm Quang Thuận thứ 10 (năm 1469) đổi làm Thừa Tuyên Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa), tên gọi Thanh Hoa có từ đây. Thanh Hoa Thừa Tuyên theo "Thiên Nam dư hạ tập" lãnh 4 phủ, 16 huyện và 4 châu. Cùng năm, lập châu Lang Chánh thuộc phủ Thanh Đô. Trong niên hiệu Quang Thuận, thừa tuyên Thanh Hoa có huyện Lương Giang (đổi tên từ huyện Ứng Thụy), châu Quan Gia hay Gia Châu...
Năm Hồng Đức thứ 21 (năm 1490), đổi làm xứ Thanh Hoa.
Trong niên hiệu Đoan Khánh (1505-1509) thời Lê Uy Mục, xứ Thanh Hoa gồm các huyện: Thụy Nguyên (đổi tên từ huyện Lương Giang)...
Trong niên hiệu Hồng Thuận (1509-1516), Lê Tương Dực đổi làm trấn Thanh Hoa.
Thời Lê trung hưng, đổi làm nội trấn Thanh Hoa, lại lấy 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan của trấn Sơn Nam, gọi là ngoại trấn Thanh Hoa. Trong thời gian này, nội trấn Thanh Hoa gồm: phủ Tĩnh Giang (đổi từ phủ Tĩnh Ninh do kị húy Lê Duy Ninh, sau lại đổi làm Tĩnh Gia), huyện Quảng Bình (đời Lê Quang Thuận là huyện Bình Giang), Vĩnh Lộc (đổi từ Vĩnh Ninh do kị húy Lê Duy Ninh), huyện Thuần Lộc (đổi từ huyện Thuần Hựu do kị húy Lê Duy Hựu), huyện Tống Sơn (đổi từ huyện Tống Giang)...
Huyện Quảng Bình đổi làm huyện Quảng Bằng, nhà Nguyễn đổi lại là Quảng Bình rồi lại đổi làm Quảng Địa. Châu Lang Chánh đổi thành Lương Chính
Năm 1802 (năm Gia Long 1), gọi là trấn Thanh Hoa. Năm Minh Mệnh thứ 2 (năm 1821), đổi đạo Thanh Bình (đã được đổi từ ngoại trấn Thanh Hoa) làm đạo Ninh Bình, năm Minh Mệnh thứ 10 đổi riêng làm trấn Ninh Bình. Năm Minh Mệnh thứ 12 (năm 1831), đổi trấn Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hoa, trấn Ninh Bình (lúc này không còn lệ thuộc vào Thanh Hoa) cũng đổi thành tỉnh Ninh Bình.
Năm Thiệu Trị thứ 1 (năm 1841), đổi tỉnh Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hóa do kị húy hoàng thái hậu Hồ Thị Hoa. Tên Thanh Hóa không đổi từ đó cho tới ngày nay.
Tỉnh Thanh Hóa vào đầu thời Nguyễn gồm các phủ: Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia và Thanh Đô (sau đổi là phủ Thọ Xuân). Sau đó lập thêm phủ Quảng Hóa.
Sau Cách mạng tháng Tám, tỉnh Thanh Hóa gồm:
Châu Tân Hóa được tái lập và đến tháng 11 năm 1945 thì đổi làm châu Bá Thước.
Từ tháng 3 năm 1948, các cấp hành chính là phủ, châu, quận được bãi bỏ. Tỉnh Thanh Hóa lúc này gồm thị xã Thanh Hóa và 20 huyện: Bá Thước, Cẩm Thủy, Đông Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Lang Chánh, Nga Sơn, Ngọc Lặc, Như Xuân, Nông Cống, Quan Hóa, Quảng Xương, Thạch Thành, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Thường Xuân, Tĩnh Gia, Vĩnh Lộc, Yên Định. Năm 1950, sáp nhập xã Thanh Quân thuộc huyện Thường Xuân vào huyện Như Xuân.
Năm 1954, chia tách các xã lớn thành các xã nhỏ, trong đó, huyện Hà Trung thực hiện chia 10 xã thành 25 xã đều có tên với tiền tố "Hà", huyện Hậu Lộc chia 10 xã thành 26 xã với hậu tố (hoặc tiền tố) "Lộc". Còn huyện Nông Cống chia 15 thành 44 xã: Hợp Thành, Hợp Thắng, Hợp Tiến, Hợp Lý (chia từ xã Hợp Tiến), Dân Quyền, Dân Lực, Dân Lý (chia từ xã Tứ Dân), Minh Sơn, Minh Nông, Minh Châu (chia từ xã Minh Nông), An Nông, Vân Sơn, Nông Trường (chia từ xã An Nông), Tiến Nông, Khuyến Nông (chia từ xã Khuyến Nông), Đồng Thắng, Đồng Lợi, Đồng Tiến (chia từ xã Đồng Tiến), Tân Phúc, Tân Thọ, Tân Khang (chia từ xã Tân Phúc), Tân Ninh, Thái Hòa (chia từ xã Tân Ninh), Trung Chính, Trung Thành, Trung Ý (chia từ xã Trung Chính), Tế Nông, Tế Lợi, Tế Thắng, Tế Tân (chia từ xã Tế Lợi), Hoàng Sơn, Hoàng Giang (chia từ xã Hoàng Sơn), Minh Khôi, Minh Thọ, Minh Nghĩa (chia từ xã Minh Khôi), Vạn Hòa, Vạn Thiện, Vạn Thắng (chia từ xã Vạn Thiện), Công Liêm, Công Chính, Công Bình (chia từ xã Công Chính), Thăng Bình, Thăng Thọ và Thăng Long (chia từ xã Thăng Bình). Năm 1956, xã Lũng Vân thuộc huyện Bá Thước được chuyển về huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Năm 1963, sáp nhập xóm Núi của xã Hoằng Long, huyện Hoằng Hóa và xã Đông Giang, huyện Đông Sơn vào thị xã Thanh Hóa, đồng thời chia 3 xã Tam Chung, Sơn Thủy và Trung Thành thuộc huyện Quan Hoá thành 7 xã mới. Cùng năm, thành lập thị trấn Sầm Sơn trực thuộc Ủy ban hành chính tỉnh Thanh Hóa và một số xã thuộc các huyện Thường Xuân, Lang Chánh và Ngọc Lặc cũng được chia tách.
Năm 1964, chia lại địa giới một số xã thuộc huyện Bá Thước, huyện Như Xuân, huyện Ngọc Lặc và huyện Cẩm Thủy. Cùng năm, thành lập huyện Triệu Sơn trên cơ sở 13 xã của huyện Thọ Xuân và 20 xã của huyện Nông Cống, đồng thời sáp nhập 7 xã của huyện Tĩnh Gia vào huyện Nông Cống. Năm 1965, thành lập xã Tân Trường thuộc huyện Tĩnh Gia, xã Tân Lập thuộc huyện Bá Thước và thị trấn Thọ Xuân thuộc huyện Thọ Xuân. Năm 1966, thành lập 2 xã thuộc vùng kinh tế mới ven biển của huyện Nga Sơn. Cùng năm, chia tách một số xã thuộc các huyện Lang Chánh, Quan Hóa. Năm 1967, thành lập các thị trấn nông trường thuộc các huyện Hà Trung, Thọ Xuân, Cẩm Thủy, Nông Cống, Thạch Thành, Ngọc Lặc. Cùng năm, chia tách một số xã thuộc huyện Thạch Thành. Năm 1968, thành lập thị trấn nông trường Sông Âm thuộc huyện Ngọc Lặc. Năm 1969, thành lập thị trấn nông trường Bãi Trành thuộc huyện Như Xuân. Năm 1971, các xã Đông Vệ, Đông Hương, Đông Hải thuộc huyện Đông Sơn và xã Quảng Thắng thuộc huyện Quảng Xương được sáp nhập vào thị xã Thanh Hóa. Năm 1973, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc các huyện Đông Sơn, Hà Trung và Nga Sơn.
Năm 1977, thành lập thị trấn Bỉm Sơn, sáp nhập huyện Hà Trung và huyện Nga Sơn thành huyện Trung Sơn, huyện Vĩnh Lộc và huyện Thạch Thành thành huyện Vĩnh Thạch, huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc thành huyện Lương Ngọc, huyện Yên Định với phần tả ngạn sông Chu của huyện Thiệu Hóa thành huyện Thiệu Yên, huyện Đông Sơn với phần hữu ngạn sông Chu của huyện Thiệu Hóa thành huyện Đông Thiệu. Năm 1978, thành lập xã Quý Lộc thuộc huyện Thiệu Yên trên cơ sở toàn bộ xã Yên Quý và xã Yên Lộc; thành lập xã Thọ Thành thuộc huyện Thọ Xuân trên cơ sở toàn bộ xã Xuân Thành, xã Hạnh Phúc và xã Bắc Lương; đồng thời sáp nhập toàn bộ thị trấn nông trường Thông Nhất thuộc huyện Lương Ngọc vào huyện Thiệu Yên. Năm 1979, thành lập xã Công Thành trên cơ sở toàn bộ xã Định Công và xã Định Thành của huyện Thiệu Yên.
Năm 1980, chia tách một số xã thuộc huyện Như Xuân, Hoằng Hóa, Trung Sơn và Tĩnh Gia.
Năm 1981, chia tách một số xã thuộc các huyện Thọ Xuân, Thiệu Yên, Lương Ngọc, Như Xuân. Cùng năm, thành lập 2 thị xã Sầm Sơn và Bỉm Sơn.
Năm 1982, tái lập các huyện Hà Trung, Nga Sơn, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Lang Chánh, Ngọc Lặc và đổi tên huyện Đông Thiệu thành huyện Đông Sơn.
Năm 1983, thành lập một số phường thuộc thị xã Bỉm Sơn, thị xã Sầm Sơn và một số xã thuộc huyện Thường Xuân.
Năm 1984, chia tách một số xã thuộc các huyện Quan Hóa, Như Xuân, Bá Thước, Tĩnh Gia, đồng thời thành lập thị trấn huyện lị Tĩnh Gia.
Năm 1987, thành lập thị trấn Quan Hóa thuộc huyện Quan Hóa, thị trấn Nông Cống thuộc huyện Nông Cống, xã Thọ Thắng thuộc huyện Thọ Xuân, xã Triệu Thành thuộc huyện Triệu Sơn và sáp nhập xã Hoằng Ngư thuộc huyện Hoằng Hóa vào xã Hoằng Yến cùng huyện
Năm 1988, chia tách một số xã thuộc các huyện Như Xuân và Quan Hóa. Cùng năm, thành lập các thị trấn huyện lị thuộc các huyện Thường Xuân, Ngọc Lặc, Triệu Sơn, Hà Trung và Nga Sơn.
Năm 1989, thành lập thị trấn huyện lị thuộc các huyện Cẩm Thủy, Hoằng Hóa, Thiệu Yên, Như Xuân. Năm 1990, thành lập thị trấn Kim Tân thuộc huyện Thạch Thành. Năm 1991, thành lập phường Bắc Sơn thuộc thị xã Bỉm Sơn, thị trấn Lam Sơn thuộc huyện Thọ Xuân, thị trấn Quảng Xương thuộc huyện Quảng Xương và thị trấn Lang Chánh thuộc huyện Lang Chánh. Năm 1992, thành lập thị trấn Rừng Thông thuộc huyện Đông Sơn và thị trấn Vĩnh Lộc thuộc huyện Vĩnh Lộc.
Năm 1994, thành lập thành phố Thanh Hóa. Cùng năm, thành lập một số phường thuộc thành phố Thanh Hóa, thành lập thị trấn Cành Nàng thuộc huyện Bá Thước và xã Bình Sơn thuộc huyện Triệu Sơn. Năm 1995, thành lập phường Trung Sơn thuộc thị xã Sầm Sơn trên cơ sở xã Quảng Tường, sáp nhập xã Đông Cương từ huyện Đông Sơn và các xã Quảng Hưng, Quảng Thành, huyện Quảng Xương về thành phố Thanh Hóa, chuyển một phần diện tích và dân số xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương về phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa.
Năm 1996, tái lập các huyện Thiệu Hóa, Yên Định, chuyển 16 xã thuộc huyện Đông Sơn về huyện Thiệu Hóa mới tái lập. Đồng thời thành lập các huyện Mường Lát, Quan Sơn, Như Thanh.
Năm 1999, xã Na Mèo của huyện Quan Sơn được thành lập trên cơ sở một phần xã Sơn Thủy, xã Mường Mìn của huyện Quan Sơn được thành lập trên cơ sở một phần xã Sơn Điện, xã Mường Lý của huyện Mường Lát được thành lập trên cơ sở một phần xã Trung Lý, xã Thanh Hòa của huyện Như Xuân được thành lập trên cơ sở một phần xã Thanh Phong. Cùng thời điểm, thị trấn nông trường Sao Vàng của huyện Thọ Xuân bị giải thể; thị trấn Sao Vàng mới của của huyện Thọ Xuân được thành lập trên cơ sở một phần thị trấn nông trường Sao Vàng cũ, xã Thọ Lâm và xã Xuân Thăng. Năm 2000, thành lập thị trấn Vạn Hà – thị trấn huyện lỵ của huyện Thiệu Hóa – trên cơ sở toàn bộ xã Thiệu Hưng. Năm 2002, phường Tân Sơn thuộc thành phố Thanh Hoá, phường Đông Sơn thuộc thị xã Bỉm Sơn và thị trấn Bến Sung thuộc huyện Như Thanh được thành lập, trong đó phường Tân Sơn được thành lập trên cơ sở một phần phường Phú Sơn của thành phố Thanh Hóa; phường Đông Sơn được thành lập trên cơ sở một phần phường Lam Sơn của thị xã Bím Sơn; và thị trấn Bến Sung được thành lập trên cơ sở một phần xã Hải Vân và xã Hải Long của huyện Như Thanh. Năm 2003, thành lập các thị trấn huyện lị Mường Lát, Quan Sơn và thị trấn Tào Xuyên, huyện Hoằng Hoá, trong đó thị trấn Mường Lát của huyện Mường Lát được thành lập trên cơ sở một phần xã Tam Chung; thị trấn Quan Sơn của huyện Quan Sơn được thành lập trên cơ sở một phần xã Sơn Lư; còn thị trấn Tào Xuyên của huyện Hoằng Hóa được thành lập trên cơ sở một phần xã Hoằng Anh, xã Hoằng Long và xã Hoằng Lý.
Tháng 1 năm 2004, các thị trấn nông trường Lam Sơn và thị trấn nông trường Sông Âm của huyện Ngọc Lặc, thị trấn nông trường Phúc Do của huyện Cẩm Thủy, thị trấn nông trường Yên Mỹ của huyện Nông Cống, thị trấn nông trường Thạch Thành và thị trấn nông trường Vân Du của huyện Thạch Thành, và thị trấn nông trường Bãi Trành của huyện Như Xuân bị giải thể. Xã Lam Sơn của huyện Ngọc Lặc được thành lập trên cơ sở một phần thị trấn nông truờng Lam Sơn và xã Minh Tiến, còn phần còn lại của thị trấn nông trường Lam Sơn được sáp nhập vào các xã Minh Tiến, Minh Sơn, Kiên Thọ của huyện Ngọc Lặc, các xã Xuân Châu, Xuân Tín, Quảng Phú của huyện Thọ Xuân; số nhân khẩu của thị trấn nông trường Sông Âm được chuyển giao về các xã Nguyệt Ấn, Kiên Thọ, Phùng Giáo, Phùng Minh của huyện Ngọc Lặc và các xã Thọ Minh, Xuân Châu, Xuân Lam, Xuân Thiên của huyện Thọ Xuân. Xã Phúc Do của huyện Cẩm Thủy được thành lập trên cơ sở một phần thị trấn nông trường Phúc Do, còn số nhân khẩu còn lại của thị trấn nông trường Phúc Do được chuyển giao về các xã Cẩm Ngọc, Cẩm Long và Cẩm Phú. Xã Yên Mỹ của huyện Nông Cống được thành lập trên co sở một phần thị trấn nông trường Yên Mỹ và xã Công Bình, phần còn lại của thị trấn nông trường Yên Mỹ được sáp nhập vào các xã Công Bình, Công Chính, Công Liêm, Thăng Long, Tượng Sơn của huyện Nông Cống, và các xã Yên Lạc, Thanh Tân của huyện Như Thanh. Xã Thạch Tân của huyện Thạch Thành được thành lập trên cơ sở một phần thị trấn nông trường Thạch Thành và xã Thạch Bình, phần còn lại của thị trấn nông trường Thạch Thành được sáp nhập vào các xã Thạch Định, Thạch Bình, Thạch Đồng, Thạch Sơn, Thạch Cẩm của huyện Thạch Thành; đồng thời thành lập thị trấn Vân Du của huyện Thạch Thành trên cơ sở một phần thị trấn nông truờng Vân Du và xã Thành Vân, còn phần còn lại của thị trấn nông trường Vân Du thì được sáp nhập vào các xã Thành Tâm, Thanh Vân, Ngọc Trạo và Thành An của huyện Thạch Thành. Tại huyện Như Xuân, hai xã Bãi Trành và Xuân Hòa được thành lập trên cơ sở một phần thị trấn nông trường Bai Trành và xã Xuân Bình, còn phần còn lại của thị trấn nông trường Bãi Trành được sáp nhập vào xã Xuân Bình thuộc huyện Như Xuân và xã Xuân Thái thuộc huyện Như Thanh.
Tháng 4 năm 2006, thị trấn Nhồi thuộc huyện Đông Sơn được thành lập trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu hai xã Đông Hưng và Đông Tân. Tháng 4 năm 2008, các xã Xuân Mỹ, Xuân Liên và Xuân Khao thuộc huyện Thường Xuân bị giải thể. Diện tích tự nhiên của ba xã này được điều chỉnh về các xã Vạn Xuân, Xuân Cẩm, Yên Nhân, Lương Sơn, Tân Thành, Ngọc Phụng, thị trấn Thường Xuân của huyện Thường Xuân; xã Xuân Hòa của huyện Như Xuân; và xã Thanh Tân, Thanh Kỳ của huyện Như Thanh. Tháng 12 cùng năm, xã Nhi Sơn thuộc huyện Mường Lát được thành lập trên cơ sở một phần xã Pù Nhi, còn xã Trung Tiến thuộc huyện Quan Sơn được thành lập trên cơ sở một phần xã Trung Thượng. Tháng 10 năm 2009, thị trấn nông trường Thống Nhất thuộc huyện Yên Định bị giải thể, diện tích tự nhiên và nhân khẩu hiện trạng do thị trấn nông trường Thống Nhất quản lý được chuyển giao về các xã Yên Giang, Yên Lâm, Yên Tâm của huyện Yên Định, các xã Cao Thịnh, Ngọc Trung, Lộc Thịnh của huyện Ngọc Lặc, xã Quảng Phú của huyện Thọ Xuân, và các xã Cẩm Tâm, Cẩm Sơn, Cẩm Châu của huyện Cẩm Thủy. Thị trấn Thống Nhất thuộc huyện Yên Định được thành lập trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Yên Giang, Yên Lâm, Yên Tâm thuộc huyện Yên Định, một phần xã Cao Thịnh thuộc huyện Ngọc Lặc và một phần xã Quảng Phú thuộc huyện Thọ Xuân. Cùng thời điểm, địa giới hành chính thị trấn Bút Sơn thuộc huyện Hoằng Hoá được mở rộng với việc sáp nhập một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu các xã Hoằng Phúc, Hoằng Đạo, Hoằng Vinh và Hoằng Đức của huyện Hoằng Hoá. Tháng 12 cùng năm, phường Phú Sơn thuộc thị xã Bỉm Sơn được thành lập trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Quang Trung; phường Quảng Tiến thuộc thị xã Sầm Sơn được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Quảng Tiến.
Ngày 29 tháng 2 năm 2012, địa giới hành chính thành phố Thanh Hoá được mở rộng thêm 19 xã, thị trấn thuộc các huyện Hoằng Hóa, Đông Sơn, Thiệu Hóa và Quảng Xương – bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã Hoằng Anh, Hoằng Lý, Hoằng Long, Hoằng Quang, Hoằng Đại và thị trấn Tào Xuyên của huyện Hoằng Hóa, các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, Thiệu Vân của huyện Thiệu Hóa, các xã Đông Lĩnh, Đông Tân, Đông Hưng, Đông Vinh và thị trấn Nhồi của huyện Đông Sơn, và các xã Quảng Thịnh, Quảng Đông, Quảng Phú, Quảng Tâm và Quảng Cát của huyện Quảng Xương. Đồng thời, 2 phường Tào Xuyên và An Hoạch thuộc thành phố Thanh Hóa cũng được thành lập lần lượt trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của thị trấn Tào Xuyên và thị trấn Nhồi. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành phố Thanh Hóa có 146,77 km² diện tích tự nhiên và 393.294 nhân khẩu, với 37 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 14 phường và 23 xã.
Ngày 19 tháng 8 năm 2013, các phường Đông Cương, Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng thuộc thành phố Thanh Hóa được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của các xã tương ứng.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, các xã Quảng Châu, Quảng Thọ, Quảng Vinh, Quảng Minh, Quảng Hùng, Quảng Đại thuộc huyện Quảng Xương được sáp nhập vào thị xã Sầm Sơn; một phần xã Vạn Hòa, xã Minh Thọ, xã Vạn Thiện của huyện Nông Cống được điều chỉnh sáp nhập vào thị trấn Nông Cống; và xã Đông Xuân, một phần xã Đông Tiến và xã Đông Anh thuộc huyện Đông Sơn được điều chỉnh sáp nhập vào thị trấn Rừng Thông.
Ngày 19 tháng 4 năm 2017, 4 phường Quảng Cư, Quảng Châu, Quảng Thọ, Quảng Vinh thuộc thị xã Sầm Sơn được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của 4 xã tương ứng. Cùng với đó, thành phố Sầm Sơn được thành lập trên cơ sở toàn bộ 44,94 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 150.902 người của thị xã Sầm Sơn, với 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 8 phường và 3 xã.
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 786/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thanh Hóa. Theo đó, tỉnh thực hiện sắp xếp 146 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 118 xã, 3 phường và 25 thị trấn – để thành 70 đơn vị hành chính cấp xã mới – giảm 76 đơn vị; đồng thời, thành lập thị trấn Nưa trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn. Sau khi sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Thanh Hóa và thành lập thị trấn Nưa thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa còn lại 559 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 496 xã, 34 phường, 29 thị trấn.
Ngày 22 tháng 4 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc thành lập thị xã Nghi Sơn và các phường thuộc thị xã Nghi Sơn, trong đó thị xã Nghi Sơn được thành lập trên cơ sở toàn bộ 455,61 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 307.304 người của huyện Tĩnh Gia. Thị xã có 31 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 16 phường và 15 xã; trong đó các phường Hải Châu, Hải An, Tân Dân, Hải Lĩnh, Ninh Hải, Ninh Hải, Bình Minh, Hải Thanh, Xuân Lâm, Trúc Lâm, Hải Bình, Hải Thượng, Hải Ninh, Nguyên Bình, Mai Lâm và Tĩnh Hải được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của các xã có tên tương ứng, và phường Hải Hòa được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của thị trấn Tĩnh Gia.
Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1108/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập các phường thuộc thành phố Thanh Hóa (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2021). Theo đó 10 phường mới thuộc thành phố Thanh Hóa được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của 10 xã có tên tương ứng – gồm Đông Lĩnh, Đông Tân, Long Anh, Quảng Cát, Quảng Đông, Quảng Phú, Quảng Tâm, Quảng Thịnh, Thiệu Dương, Thiệu Khánh; sau khi thành lập 10 phường, thành phố Thanh Hóa có 34 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 30 phường và 4 xã.
Ngày 27 tháng 4 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1260/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2021). Hai thị trấn Quý Lộc và thị trấn Yên Lâm thuộc huyện Yên Định được thành lập lần lượt trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của hai xã Quý Lộc và Yên Lâm; sau khi thành lập hai thị trấn, huyện Yên Định có 26 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 22 xã và 4 thị trấn.
Ngày 13 tháng 12 năm 2023, thành lập thị trấn Hậu Hiền trên cơ sở toàn bộ xã Minh Tâm và sáp nhập xã Thiệu Phú vào thị trấn Thiệu Hóa thuộc huyện Thiệu Hóa.
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Lịch sử hành chính Thanh Hóa, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.