Kích thước quần thể là tổng số các cá thể cùng loài hiện có trong một quần thể.
Ví dụ:
Trong tiếng Anh, khái niệm này là population size.
Trong thế giới tự nhiên, kích thước quần thể bị ảnh hưởng rất nhiều do tác động của các nhân tố sinh thái dẫn đến các biến đổi không chỉ về số lượng cá thể, mà còn về mặt di truyền học.
N = (B + I) - (D + E).
- Khi đó, nếu B = D (số sinh bằng số chết) thì N0 / Nt = 1, thì trạng thái ổn định hay cân bằng xảy ra, kích thước quần thể không thay đổi.
- Nếu N = 0 thì quần thể tuyệt chủng.
- Nếu N = 1 thì quần thể sinh vật sinh sản hữu tính chỉ còn một cá thể duy nhất, sống không có bạn tình.
- Nếu B > D (sinh ra nhiều chết đi), thì kích thước tăng.
- Nếu B < D (sinh ít hơn tử vong) thì kích thước đang giảm.
Trong các điều kiện nghiệm đúng của phương trình Hacđi-Venbơc, thì điều kiện "kích thước quần thể" luôn luôn bị vi phạm ở thế giới tự nhiên, dẫn đến trạng thái mất cân bằng về các tần số alen và tần số kiểu gen, do đó cũng dẫn đến mất cân bằng về kích thước quần thể. Nguyên nhân chủ yếu là yếu tố ngẫu nhiên và phát tán hay di cư và nhập cư.
Quần thể trải qua các thảm hoạ tự nhiên (do thiên tai gây nên như núi lửa phun, động đất,...) hoặc thảm hoa nhân tạo (do người gây ra như đốt rừng, tràn dầu,...) luôn bị biến động số lượng kèm theo hiệu ứng thắt cổ chai quần thể. Khi gặp thảm hoạ, chỉ một số ít cá thể của quần thể tình cờ sống sót, giống như quần thể vốn đựng trong một cái chai rồi bị dốc ngược đột ngột ra, thì chỉ có một số ngẫu nhiên rơi khỏi chai may mắn sót lại. Hiệu ứng này thường dẫn đến giảm độ đa dạng di truyền của quần thể (hình bên).
Năm | Số cá thể |
---|---|
Trước 1492 | 60,000,000 |
1890 | 750 |
2000 | 360,000 |
Bò bizôn châu Âu (Bison bonasus) vào thế kỷ XV có tới 60 triệu con, nhưng bị săn bắt nhiều nên phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào đầu thế kỷ 20. Ở Mỹ, các cá thể bò bizon ngày nay (trừ những con ở Nam Dakota) đều là con cháu của 12 cá thể còn sống sót, nên mặc dù được bảo tồn, số lượng phục hồi khoảng 360.000 con (năm 2000), nhưng độ đa dạng di truyền cực kỳ thấp (xem bảng bên).
Một số cá thể di cư khỏi quần thể ban đầu đến nơi mới có thể tạo nên quần thể mới. Khi đó, các cá thể này gọi là thành viên sáng lập, còn các kiểu gen ở quần thể mới thường là kém phong phú hơn hẳn các kiểu gen ở quần thể gốc sẽ tạo nên hiệu ứng sáng lập (founder effect). Trong trường hợp này - theo Ernst Mayr - loài đã mở rộng khu phân bố nhưng lại làm giảm sự đa dạng di truyền ban đầu (hình bên).
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Kích thước quần thể, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.