Kinh Vĩnh Tế là một con kênh chảy qua địa phận hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Kinh Vĩnh Tế cùng với kênh Nhà Lê là những kênh đào lớn nhất trong lịch sử Việt Nam thời quân chủ.
Kênh Vĩnh Tế | |
---|---|
Thông tin chung | |
Quốc gia | Việt Nam |
Địa chỉ | An Giang và Kiên Giang |
Chủ đầu tư | nhà Nguyễn |
Xây dựng | |
Khởi công | 12 (âm lịch) năm 1819 |
Hoàn thành | 5 (âm lịch) năm 1824 |
Kích thước | |
Kích thước | Khoảng 87 km x 30 m x 2,55 m |
Kinh Vĩnh Tế đào song song với đường biên giới Việt Nam – Campuchia, bắt đầu từ bờ tây sông Châu Đốc thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang ngày nay.
Nguyên nhân Kênh Vĩnh Tế là vào năm 1816, khi thành Châu Đốc được đắp xong, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường tâu lên, vua Gia Long xem địa đồ miền đất này liền truyền: Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy. Biết thế, nhưng nhà vua chưa ra lệnh đào ngay vì ngại đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, nếu bắt làm xâu thêm khổ sở, lòng dân sẽ không yên
Song mãi đến tháng 9 (âm lịch) năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long mới cho lịnh đào kinh, và công việc được bắt đầu khởi công vào ngày 15 tháng Chạp năm ấy. Sách Quốc triều sử toát yếu, phần Chánh biên, chép:
Công trình đào kinh Vĩnh Tế kéo dài từ thời tướng Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng trấn Gia Định Thành (1819-1820) cho đến thời tướng Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định Thành (1820-1832) mới xong. Có thể xem hai ông như là "Tổng chỉ huy" của công trình. Ngoài ra, lần lượt còn có sự góp sức của hai Phó tổng trấn là Trương Tấn Bửu và Trần Văn Năng..
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép về kinh Vĩnh Tế như sau:
Chuyển đổi theo hệ đo lường ngày nay, thì kinh Vĩnh Tế có chiều dài là 87km, 340, rộng 30 m, độ sâu trung bình khoảng 2,55m. Tuy nhiên, trừ đoạn láng Náo Khẩu Ca Âm (7.650m) và chiều dài sông Giang Thành (42.500m) có sẵn, thì phần phải đào mới chỉ là 37 km, 190m .
Ước tính trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 90.000 dân binh . Tổng số ngày công là 3.463.500, và khối lượng đất đào là: 2. 8 45.035 m³ .
Bởi công việc ở chốn "đồng không mông quạnh", nhiều "sơn lam chướng khí"; việc ăn uống, thuốc men thảy đều thiếu thốn, khiến số người chết vì bệnh tật, kiệt sức, vì thú dữ như sấu, rắn rít... quá cao . Và số người bỏ trốn rồi bỏ mạng cũng lắm, mặc dù luật lệ ràng buộc, nhiều tai ương, nhất là khi phải vượt qua sông Vàm Nao. Cho nên khi tin vui về đến Huế, vua Minh Mạng rất đỗi mãn nguyện vì nối được chí cha, liền sắc khen thưởng, dựng bia ở núi Sam và ở bờ kênh mới đào để ghi nhớ thành quả to lớn này .
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua cho đúc Cửu đỉnh để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, hình kênh Vĩnh Tế được chạm khắc trên Cao đỉnh.
Như đã nói ở phần trên, trước khi khởi đào, vua Gia Long đã có lời dụ cho dân chúng, vừa động viên vừa chỉ rõ sự lợi ích của việc đào kinh.
Năm 1822, vua Minh Mạng lại có chỉ dụ tương tự:
Đào xong, Đại Nam nhất thống chí, phần An Giang tỉnh, một lần nữa ghi nhận là Từ ấy đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước, phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân mua bán đều được tiện lợi vô cùng.
Đến bây giờ, kinh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn.
Nên ca dao có câu:
Tế nghĩa trủng văn Kênh Vĩnh Tế còn được gọi là Thừa đế lịnh, tế cô hồn kinh Vĩnh Tế tân kinh, do Thoại Ngọc Hầu cho soạn theo lịnh vua, để ông đọc trong buổi lễ tế các chiến sĩ, các sưu dân đã bỏ mình trong công tác đào kênh Vĩnh Tế.
Trích bản dịch:
Quá trình xây dựng kinh Vĩnh Tế đã để lại trong cộng đồng người Khmer những câu chuyện về cách đối xử hà khắc của người Việt đối với người Khmer. Sau này Khmer Đỏ đã sử dụng những câu chuyện này trong các chiến dịch tuyên truyền khơi dậy lòng hận thù của người Campuchia đối với người Việt. Song theo một số nhà nghiên cứu, thì đây chỉ là một sự bịa đặt để gây căng thẳng mối quan hệ giữ hai nước, vì lúc ấy quân dân Chân Lạp tham gia đào kinh được đặt dưới quyền của các đầu mục của nước ấy như Đồng Phù, Nhâm Lịch Đột,... được nhà Nguyễn cấp tiền và gạo, và được giao cho phần đất dễ đào như sách Gia Định thành thông chí đã ghi: "bùn đất khô cứng là phần việc của người Việt, còn đất bùn nhão là phần việc của dân Cao Miên".
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Kênh Vĩnh Tế, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.