Hồng Bàng: Giai đoạn thần thoại trong địa-lịch sử Việt Nam

Hồng Bàng thị (Tiếng Trung: 鴻龐氏) hay Thời đại Hồng Bàng là một giai đoạn lịch sử thuộc thời đại thượng cổ của lịch sử Việt Nam.

Triều Hồng Bàng
2879 TCN–258 TCN
Trống đồng Đông Sơn Xích Quỷ, sau là Văn Lang
Trống đồng Đông Sơn
Tổng quan
Vị thếVương quốc truyền thuyết (nửa thật, nửa ảo)
Thủ đôNgàn Hống (~2879 TCN – ?)
Nghĩa Lĩnh (Thế kỷ XXIX TCN)
Phong Châu (Tới 258 TCN)
Tôn giáo chính
Thuyết vật linh, tín ngưỡng truyền thống
Chính trị
Chính phủQuân chủ chuyên chế
Vua 
• 2879–2794 TCN
Hùng Vương I (đầu tiên)
• 408–258 TCN
Hùng Vương XVIII (cuôi cùng)
Lịch sử
Thời kỳThời kỳ cổ đại, Thời đại đồ đồng, Thời đại đồ sắt
• Kinh Dương Vương thành lập liên minh Xích Quỷ
2879 TCN
• Lạc Long Quân lên ngôi và đổi tên nước thành Văn Lang
2524 TCN
• Thục Phán đem quân tiêu diệt
258 TCN
Kế tục
Âu Lạc Hồng Bàng: Niên đại, Hình thái xã hội, Các truyền thuyết
Hiện nay là một phần củaViệt Nam
Trung Quốc


Loạt bài
Lịch sử Việt Nam
Bản đồ Việt Nam

Thời tiền sử

Hồng Bàng

An Dương Vương

Bắc thuộc lần I (207 TCN – 40)
   Nhà Triệu (207 – 111 TCN)
Hai Bà Trưng (40 – 43)
Bắc thuộc lần II (43 – 541)
   Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền LýTriệu Việt Vương (541 – 602)
Bắc thuộc lần III (602 – 905)
   Mai Hắc Đế
   Phùng Hưng
Tự chủ (905 – 938)
   Họ Khúc
   Dương Đình Nghệ
   Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô (938 – 967)
   Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh (968 – 980)
Nhà Tiền Lê (980 – 1009)
Nhà Lý (1009 – 1225)
Nhà Trần (1225 – 1400)
Nhà Hồ (1400 – 1407)
Bắc thuộc lần IV (1407 – 1427)
   Nhà Hậu Trần
   Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê
   Nhà Lê sơ (1428 – 1527)
Nhà Lê trung hưng
(1533 – 1789)
Nhà Mạc (1527 – 1592)
TrịnhNguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn (1778 – 1802)
Nhà Nguyễn (1802 – 1945)
   Pháp thuộc (1887 – 1945)
   Đế quốc Việt Nam (1945)
Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1975)
   Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
   Quốc gia Việt Nam
   Việt Nam Cộng hòa
   Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976)

Xem thêm

sửa

Thời đại này dựa nhiều trên các truyền thuyết, truyện kể ở những tác phẩm như Lĩnh Nam chích quái và được hợp thức hóa trở thành một giai đoạn lịch sử qua Đại Việt sử ký toàn thư, cuốn sử thư đã đưa Hồng Bàng thị làm Kỷ đầu tiên.

Niên đại Hồng Bàng


    Còn trong bộ Việt sử lược có dành những dòng sau cho các vua Hùng:Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên-ND) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối thắt gút. Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương. (Nếu dựa theo sách này thì 18 đời vua Hùng, mỗi đời sẽ cai trị trung bình hơn 24 năm).


Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc, ngoài ra còn có một số nhóm người sinh sống trên các lưu vực sông thuộc khu vực Thanh Nghệ Tĩnh ngày nay. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.

Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hóa Đông Sơn).

Hình thái xã hội Hồng Bàng

Văn Lang, được coi là quốc hiệu đầu tiên của nước Việt Nam, có kinh đô đặt ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Lãnh thổ gồm Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.

Theo Lĩnh Nam chích quái, quyển 1, Hồng Bàng thị truyện (鴻龐氏傳) thì nước Văn Lang:

Cả nước được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡). Mỗi sách lại chép khác nhau, chủ yếu cóp nhặt từ tên các quận huyện thời Bắc thuộc và chỉ bao phủ phần Lưỡng Quảng của Trung Quốc. Việc chú giải các địa danh cổ theo bản đồ ngày nay vẫn còn tranh cãi.

Lĩnh Nam chích

quái

Đại Việt Sử Ký toàn thư - theo

Cương mụcTrần Trọng Kim

Việt Sử Lược

- theo Đào Duy Anh

Có 08 bộ có tên gọi giống nhau trong cả 03 sách:
Việt Thường (越裳) Việt Thường - Thuận Hóa ? Việt Thường Thị (có Loa Thành) - Hà Tĩnh ?
Văn Lang (文郎) Văn Lang - Xứ Đoài Văn Lang - Xứ Đoài
Giao Chỉ (交趾) Giao Chỉ - Thăng LongSơn Nam Giao Chỉ - Thăng Long và Sơn Nam
Vũ Ninh (武寧) Vũ Ninh - Kinh Bắc Vũ Ninh - Kinh Bắc
Cửu Chân (九真) Cửu Chân - Thanh Hóa Cửu Chân - Thanh Hóa
Hoài Hoan (懷驩) Hoài Hoan - Nghệ An Hoài Hoan - Nghệ An
Ninh Hải (寧海) Ninh Hải - Quảng Yên Ninh Hải - Quảng Đông (Trung Quốc)
Lục Hải (陸海) Lục Hải - Lạng Sơn Lục Hải - Hải Ninh (Quảng Yên + Lạng Sơn)
Các bộ tên gọi khác nhau (cùng hàng chưa chắc là cùng chỉ 1 bộ):
Dương Tuyền (陽泉) Dương Tuyền (陽泉) - Xứ Đông Thang Tuyền (湯泉) - Quảng Tây (Trung Quốc)
Phúc Lộc (福祿) Phúc Lộc (福祿) - Xứ Đoài Gia Ninh (嘉寧) - Xứ Đoài
Chu Diên (朱鳶) Chu Diên (朱鳶) - Xứ Đoài Tân Xương (新昌) - Xứ Đoài
Tượng Quận (象郡) Cửu Đức (九德) - Hà Tĩnh Cửu Đức (九德) - Nghệ An
Chân Định (真定) Vũ Định (武定) - Thái Nguyên, Cao Bằng Quân Ninh (軍寧) - Thanh Hóa
Nhật Nam (日南) Tân Hưng (新興) - Hưng Hóa, Tuyên Quang Nhật Nam (日南) - Thuận Hóa
Quế Lâm (桂林) Bình Văn (平文) - chưa rõ ở đâu Bình Văn (平文) - chưa rõ ở đâu

Trong triều đình có các quan Lạc hầu (駱侯) giúp việc, đứng đầu các bộ là các quan Lạc tướng (駱將), đều có thái ấp riêng, các quan nhỏ ở địa phương gọi là "Bồ chính" (蒲正). Con trai vua gọi là "Quan lang" (官郎), con gái vua gọi là "Mị nương" (媢娘) hay Mệ nàng, nữ nô lệ gọi là "xảo xứng" (稍稱) (còn gọi là "nô tỳ" (奴婢)). Xã hội phân làm ba tầng lớp là vua quan, dân, nô tỳ (nô lệ).

Thủy kinh chú (水經注) chép:

    "Giao Chỉ có ruộng Lạc, trông nước triều lên xuống mà làm. Người ăn ruộng là Lạc Vương (Lạc Hầu). Các huyện gọi là Lạc Tướng (quan cai quản), có ấn đồng dãi xanh, tức quan lệnh ngày nay."

Trích Lĩnh Nam chích quái:

    "Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân."

Các truyền thuyết Hồng Bàng

Truyện Hồng Bàng thị trong Lĩnh Nam chích quái chép rằng:

    "Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi... Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi".

Học giả Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét; đồng thời bánh chưng và bánh dày tượng trưng cho dương vậtâm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, dùng thay cho bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việtmiền nam Việt Nam, theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy của bánh chưng.

Xem thêm

Tham khảo

Nguồn sơ cấp Hồng Bàng

  • Lĩnh Nam chích quái.
  • Nhiều tác giả, Đại cương Lịch sử Việt Nam tập I (Từ thời nguyên thủy đến năm 1858), Nhà Xuất bản Giáo dục, 2001.
  • Phạm Minh Huyền. 1996. Văn hóa Đông Sơn. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.

Liên kết ngoài

Tags:

Niên đại Hồng BàngHình thái xã hội Hồng BàngCác truyền thuyết Hồng BàngNguồn sơ cấp Hồng BàngHồng BàngChữ HánLịch sử Việt Nam

🔥 Trending searches on Wiki Tiếng Việt:

Viễn PhươngHải PhòngDấu chấm phẩyVõ Nguyên GiápLê Đức AnhHarry LuNông Đức MạnhThổ Nhĩ KỳDanh sách trường trung học phổ thông tại Hà NộiChiến tranh Đông DươngHồn Trương Ba, da hàng thịtLê Ánh DươngTrần Quốc VượngMặt TrăngNgày Trái ĐấtNgười Thái (Việt Nam)Họ người Việt NamBlackpinkAtlético MadridCộng hòa Nam PhiAC MilanĐịa đạo Củ ChiDanh sách nhân vật trong One PieceVụ sai phạm tại Tập đoàn Phúc SơnĐứcVạn Lý Trường ThànhDanh sách tỉnh Việt Nam có giáp biểnThích Quảng ĐứcLê Thái TổPhong trào Dân chủ Đông Dương (1936–1939)T1 (thể thao điện tử)Danh sách ngân hàng tại Việt NamPhim khiêu dâmDoraemonGNguyễn Thanh NghịChí PhèoCảm tình viên (phim truyền hình)Hiếp dâmTháp RùaPhạm Nhật VượngWilliam ShakespeareGiê-suNguyễn Ngọc TưHybe CorporationVụ án Lê Văn LuyệnTF EntertainmentNguyễn Minh Châu (nhà văn)Nguyễn Hạnh PhúcTiếng ViệtĐại học Bách khoa Hà NộiChelsea F.C.Cao BằngTư tưởng Hồ Chí MinhNguyễn DuNha TrangLê Đức ThọNguyễn Tấn DũngVăn LangTrần Sỹ ThanhThánh địa Mỹ SơnChâu MỹTượng Nữ thần Tự doReal Madrid CFNhật ký Đặng Thùy TrâmThiếu nữ bên hoa huệYên BáiChiến tranh biên giới Việt Nam – CampuchiaTSa PaCuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2024ShopeeTỉnh thành Việt NamTrần Tuấn AnhQuảng ĐôngMặt TrờiDanh sách tiểu bang Hoa Kỳ theo ngày trở thành tiểu bangLịch sử Trung QuốcTỉnh ủy Bắc Giang🡆 More