Hà Âm (Tiếng Trung: 河陰) là một huyện cũ thuộc tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn Việt Nam.
Ngày nay là phần đất thuộc các huyện phía Nam của tỉnh Takéo Campuchia, vùng đất phía bờ Bắc (bờ trái theo hướng về thượng nguồn) kênh Vĩnh Tế.
Huyện Hà Âm phủ Tuy Biên, trước là đất huyện Châu Thành nước Cao Miên, gồm 2 tổng với 40 làng xã, phía Tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía Nam giáp huyện Hà Dương, phía Đông giáp huyện Tây Xuyên, phía Bắc giáp nước Cao Miên. Theo Đại Nam nhất thống chí: huyện Hà Âm nằm bên trái (tả, tức bờ phía tây bắc) sông Vĩnh Tế. Như vậy, vào thời này, vùng đất huyện Hà Âm thuộc phần đất giáp biên giới của Campuchia với Việt Nam, tức là phần đất huyện Kiri Vong, và có thể cả phần đất các huyện Kaoh Andaet, Bourei Cholsar thuộc tỉnh Takeo Campuchia.
Đại Nam nhất thống chí chép rằng: "Huyện Hà Dương ở Tây Nam phủ 40 dặm. Đông đến Tây cách nhau 68 dặm, Nam đến Bắc cách nhau 73 dặm. Phía đông đến huyện giới Tây Xuyên 44 dặm; phía tây đến huyện giới Hà Châu tỉnh Hà Tiên 24 dặm; phía Nam đến huyện giới Kiên Giang tỉnh Hà Tiên 38 dặm; phía bắc đến huyện giới Hà Âm 35 dặm... Huyện Hà Âm ở Tây Bắc phủ 80 dặm. Đông đến Tây cách nhau 73 dặm, Nam đến Bắc cách nhau 42 dặm. Phía đông đến huyện giới Tây Xuyên 38 dặm; phía tây đến huyện giới Hà Dương [Hà Châu] 25 dặm; phía bắc đến cảnh giới nước Cao Miên 17 dặm. Nguyên trước là đất của 2 huyện Tây Xuyên và Chân Thành. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839) chia đặt huyện này, lấy phía tế [phía tả] sông Vĩnh Tế làm huyện Hà Âm, thuộc phủ hạt Tĩnh Biên..."
Đại Nam thực lục có nhiều đoạn chép về địa danh Hà Âm cũng như các địa danh đương thời nằm trong địa bàn huyện Hà Âm có thể cho thấy được dấu vết vị trí của Hà Âm:
Trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, xem xét về các địa danh trấn Hà Tiên, Đào Duy Anh viết: "... Chúng ta đã biết Vũng Thơm, Cần Bọt, Sài Mạt là dải đất từ lỵ sở Hà Tiên đến Sài Mít. Tức dải đất bờ biển phía tây nam nước Cao Miên. Còn Chân Sum thì Nhất thống chí (An Giang) chép là núi ở phía nam huyện Hà Âm cách 10 dặm, cách bờ sông Vĩnh Tế ở phía Nam 10 dặm. Huyện Hà Âm là huyện ở phía bắc sông Vĩnh Tế (phía âm của sông) nên gọi tên là thế, đối với huyện Hà Dương là huyện ở phía nam (phía dương của sông). Có thể đất Chân Sum là đất Sóc Sum của tỉnh KamPot. Về Linh Quỳnh thì Nhất thống chí chép rằng núi Linh Quỳnh thuộc huyện Hà Châu cách 120 dặm và ở phía bắc sông Giang Thành, sông này có hai nguồn ra từ núi Linh Quỳnh. Linh Quỳnh tức địa điểm Linh Quỳnh của tỉnh KamPot nước Cao Miên. (Xem thế thì thấy rằng năm phủ Vũng Thơm, Cần Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh ở đời Nguyễn còn là đất của huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên và của huyện Hà Âm tỉnh An Giang, đến đời Tự Đức triều Nguyễn mới trả về nước Cao Miên)."
Các đồn bảo của nhà Nguyễn là các trạm sở cửa khẩu thu thuế giao thương, đắp bằng đất, trong thời chiến trở thành các đồn binh. Theo Đại Nam nhất thống chí trên địa bàn huyện Hà Âm có các đồn bảo sau:
Các thôn làng thuộc Hà Âm: Vĩnh Thông, Vĩnh Bảo, Vĩnh Lạc, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Vĩnh Điền, Thân Nhơn (Thân Nhân), An Quới, Long Thạnh, Linh Quỳnh (Luih-Quinh tức làng Prey-Angkonh), Cổ Man (sóc Kaoh Moan),...
Tháng 4 âm năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas tỉnh Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum (Treang) và Mật Luật (Meát Chruk). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang. Cao Xuân Dục viết trong Quốc triều chính biên toát yếu như sau: "Vua nước Chân Lạp là Nặc Chân gửi thư cho quan bảo hộ Nguyễn Văn Thụy xin cắt đất 3 phủ: Lợi Kha Bát, Chân Sum, Mật Luật để trả ơn ông Thụy [Thoại]... Thụy đem thư ấy báo thành Gia Định, quan thành ấy [Lê Văn Duyệt] tâu lên, Ngài khiến đình thần bàn. Lê Văn Duyệt tâu rằng: "Vua Chân Lạp không phải bản tâm báo ơn Thụy, chẳng qua vì người Xiêm nuôi em nó [tranh chấp nội bộ Cao Miên], nên nó muốn cho ta bảo hộ được bền vững đó thôi. Ta mà nhận cả... người Xiêm có điều nói được, ta mà khước cả thì e không phải ý Đức Thế tổ Cao hoàng đế trù nghĩ việc ngoài biên. Vả lại, đất 3 phủ ấy thì đất Lợi Kha Bát hơi xa, khước đi cũng phải, còn đất Châu Sum, Mật Luật thì ở chính giữa đất Châu Đốc, Giang Thành ta, xin nhận lấy đất mà đừng thu thuế, khiến cho nó biết triều đình ta chỉ lo việc ngoài biên không phải vì tham lợi,... mà vui lòng thuần phục,..."... Ngài cho là phải [và sai] khiến Thụy nhận lấy dân phủ Chân Sum và Mật Luật,..., còn thuế thì cứ giao cho vua nước nó [Ang Chan II]. Nhưng [Thụy] phải làm tờ thư mà đáp lại cho Chân Lạp."
Năm Minh Mạng 20 (1839), nhà Nguyễn cắt đất huyện Chân Thành phủ Chân Chiêm thuộc Trấn Tây Thành (xứ Cao Miên do nhà Nguyễn bảo hộ) hợp với phần đất cắt từ huyện Tây Xuyên để lập hai huyện Hà Dương (ở bờ Nam sông Vĩnh Tế) và Hà Âm (ở bờ Bắc sông Vĩnh Tế) phủ Tĩnh Biên (Tịnh Biên) của tỉnh Hà Tiên (sau chuyển sang tỉnh An Giang).
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Thiệu Trị trích phủ Tĩnh Biên cùng huyện Hà Dương của tỉnh Hà Tiên, sáp nhập vào An Giang. Năm 1844, trích thêm huyện Hà Âm của tỉnh Hà Tiên nhập vào phủ Tĩnh Biên, lúc này phủ Tĩnh Biên gồm các huyện Hà Âm, Hà Dương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), nhà Nguyễn bỏ phủ Tĩnh Biên, cho nhập 2 huyện Hà Âm và Hà Dương vào phủ Tuy Biên. Vào thời vua Tự Đức tỉnh An Giang gồm có 3 phủ với 10 huyện: Hà Âm, Hà Dương, Phong Phú, Tây Xuyên, Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên, Phong Nhiêu, Phong Thịnh, Vĩnh Định.
Đại Nam thực lục chép rằng: "Tháng 8 âm lịch năm Giáp Thìn niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844):... Đổi huyện Hà Âm tỉnh Hà Tiên cho lệ thuộc phủ Tĩnh Biên tỉnh An Giang, huyện Hà Dương và huyện Hà Âm nguyên thuộc tỉnh Hà Tiên (2 huyện vốn là đất Chân Thành, năm Minh Mạng thứ 20 [1839] tách ra để thuộc về phủ An Biên tỉnh Hà Tiên), năm Thiệu Trị thứ 2 [1842] trích huyện Hà Dương đổi về tỉnh An Giang, huyện Hà Âm vẫn thuộc về phủ An Biên; đến đây, lĩnh Tuần phủ Hà Tiên là Nguyễn Lương Nhàn nói địa thế huyện Hà Âm liền với phủ Tĩnh Biên, xin theo nơi gần, đổi sáp nhập tỉnh An Giang, để liệu cho dân. Vua ưng cho."
Không rõ đất huyện Hà Âm tồn tại trong lãnh thổ Việt Nam đến chính xác thời điểm nào thì lại thì lại trở về thuộc lãnh thổ Campuchia. Tuy nhiên, trong Đại Nam thực lục, bộ sử lớn nhất đương thời của Quốc sử quán triều Nguyễn thì sự kiện lịch sử cuối cùng được đề cập đến trong bộ sử này, liên quan tới những địa danh thuộc huyện Hà Âm (cái mà còn chứng tỏ sự tồn của Hà Âm trong lãnh thổ Việt Nam) là vào năm 1860. Đại Nam thực lục chép: "...Tháng 3 nhuận [âm lịch] năm Canh Thân niên hiệu Tự Đức thứ 13 [1860], lúc bấy giờ giặc Cao Miên kéo nhau quấy rối. Vua dụ bọn Tổng đốc [An-Hà] là Nguyễn Công Nhàn, Tuần phủ [An Giang] là Phan Khắc Thận ở An - Hà rằng: "Nay giặc Man hiện đang ra vào quấy rối ở các sở đồn bảo như... Tĩnh Biên, Giang Nông, Vĩnh Thông [Hà Âm] ở sông Vĩnh Tế tỉnh An Giang; Giang Thành, Tiên Thái, Kiên Giang, Thạch Động, Ba Xuyên tỉnh Hà Tiên. Lại nghe Tù trưởng Cao Miên [(là Norodom)], hẹn đến mùa thu nước lên, thuyền Tây Dương vào sông trong, bấy giờ chúng nó cùng nhau đánh ập lại. Lại [phía Lộc Sơn (Mũi Nai)] Hà Tiên thám báo giặc người hạt nước Thanh là Hoàng Quốc Lập, đầu mục Man là tên Tôn, chiêu dụ người Thanh, người Thổ ở Cần Bột, hẹn nhau đường thủy bộ chia đến quấy rối... Nguyễn Công Nhàn lập công cõi ngoài nhiều lần tỏ ra khó nhọc tài năng. Phan Khắc Thận trải nhiều chiến trận đã hiểu cơ nghi. Thế mà không nghĩ đến việc ấy, chỉ muốn vạch giới hạn tự giữ lấy. Sao lại trì hoãn thế?..." (Việc Quốc Lập... đến ở cõi đất Cao Miên, Tù trưởng Cao Miên giúp quân và lương cho.)"
Tới tháng 12 âm lịch năm Ất Sửu (tức đầu năm 1866), khi 3 tỉnh miền Đông (Gia Định (tỉnh), Biên Hòa (tỉnh), Định Tường) đã bị Pháp chiếm, Nam Kỳ chỉ còn 3 tỉnh miền Tây, vùng biên giới tỉnh An Giang và Hà Tiên với Cao Miên có sự hoạt động của cuộc khởi nghĩa Acha Xoa, thì biên giới đã lùi vào tới kênh Vĩnh Tế vùng Thất Sơn (Bảy Núi), vùng Hà Âm không còn được nhắc đến trong sử nhà Nguyễn nữa. Theo Đại Nam thực lục, chép về thời gian đó, viết: "Tổng Đốc Vĩnh Long là Trương Văn Uyển và Tổng đốc An - Hà là Phan Khắc Thận đem tình hình biên giới và thế địch bí mật tâu lên. (Văn Uyển nói: Nước Cao Miên đã chia 2 lòng, cùng với nước Pháp tư thông, cầu lấy lại các xứ Thất Sơn. Khắc Thận nói:... Người Pháp thì thường bức bách phải nã bắt tên Xoa. Và lại, đất cheo leo, hiểm trở, rất nhiều sự khó làm.) Vua [Tự Đức] sai [triều thần] thương lượng nghị định. Bọn Đoàn Thọ, Trần Tiễn Thành cho là: "3 tỉnh [An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long] cheo leo, trơ trọi, mà nước Cao Miên đã bị người Pháp bảo hộ rồi, tạm hãy mềm dẻo, để yên lòng họ, cứ chiếu địa giới ngăn chặn, nếu thấy tên Xoa trốn vào địa giới ta thì bắt giao trả, để dứt mối nghi ngờ của họ [người Pháp]... Đến như Thất Sơn, năm trước đã dựng thành thôn và thu thuế, lại ở vào quãng 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại có sông Vĩnh Tế ngăn làm giới hạn, đều là đất của ta [Đại Nam], người Miên [triều đình Norodom] đến cầu người Pháp thu phục lại, (đó là theo lời phỏng đoán của tỉnh thần Vĩnh Long),..." Vua cho là phải,..."
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Đầu, một phần lớn đất huyện Hà Âm đến thời Pháp thuộc đã bị người Pháp cắt cho lãnh thổ của Campuchia thuộc Pháp cùng với vài vùng đất khác dọc biên giới Việt Nam - Campuchia: như vùng đất tổng Hà Nhuận huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên kéo đến tận núi Linh Quỳnh cách biên giới 25 km, vùng được gọi là Mỏ Vịt (thuộc tỉnh Svay Rieng) nguyên là đất huyện Tân Ninh phủ Tây Ninh tỉnh Gia Định.
This article uses material from the Wikipedia Tiếng Việt article Hà Âm, which is released under the Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 license ("CC BY-SA 3.0"); additional terms may apply (view authors). Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0, ngoại trừ khi có ghi chú khác. Images, videos and audio are available under their respective licenses.
®Wikipedia is a registered trademark of the Wiki Foundation, Inc. Wiki Tiếng Việt (DUHOCTRUNGQUOC.VN) is an independent company and has no affiliation with Wiki Foundation.