Chiêu Hoài Hoàng Hậu

Chiêu Hoài Hoàng hậu (Tiếng Trung: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là Nguyên Phù Hoàng hậu (元符皇后) hoặc Sùng Ân Thái hậu (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.

Chiêu Hoài Hoàng hậu
昭懷皇后
Tống Triết Tông Hoàng hậu
Hoàng hậu nhà Tống
Tại vị1099 - 1100
Tiền nhiệmChiêu Từ Mạnh Hoàng hậu
Kế nhiệmHiển Cung Vương Hoàng hậu
Thông tin chung
Sinh1079
Mất1113 (33–34 tuổi)
Sùng Ân cung, Khai Phong
An tángVĩnh Thái lăng (永泰陵)
Phối ngẫuTống Triết Tông
Triệu Hú
Hậu duệ Chiêu Hoài Hoàng Hậu
Thụy hiệu
Chiêu Hoài Hoàng hậu
(昭懷皇后)
Tước hiệuSùng Ân Thái hậu
(崇恩太后)
Thân phụLưu An Thành
Thân mẫuVương thị

Bà vốn là sủng phi của Tống Triết Tông, nhưng tính tình kiêu căng ngạo mạn, vô cùng tàn độc, xem thường lễ giáo, nhiễu loạn cung quy, hãm hại Hoàng hậu đầu tiên của Tống Triết Tông là Chiêu Từ Thánh Hiến Mạnh Hoàng hậu nhằm soán ngôi. Dưới thời Tống Huy Tông, bà được gia ân tôn làm Thái hậu, nhưng không phải Hoàng thái hậu.

Tiểu sử Chiêu Hoài Hoàng Hậu

Hoàng hậu họ Lưu (劉), không rõ tên thật, dã sử gọi là Thanh Tinh (清菁), cũng không rõ quê quán ở đâu. Tằng tổ Lưu Vịnh (劉泳), tặng Thái tử Thiếu bảo, sau lên Thái tử Thái bảo; tằng tổ mẫu Cảnh thị (耿氏) tặng Hàm Ninh Quận Thái phu nhân, sau cải lên Phúc Quốc. Tổ phụ là Lưu Chí (劉志), trước tặng Thái tử Thiếu phó, sau lên Thái tử Thái phó; tổ mẫu Thời thị (時氏) tặng Đại Ninh Quận Thái phu nhân, lại thăng Cát Quốc. Thân phụ là Lưu An Thành (刘安成), tặng Thái tử Thiếu sư, sau tặng Thái tử Thái sư, tước Đông Bình quận vương. Đích mẫu Thời thị (時氏) trước tặng làm Hòa Chính Quận phu nhân, sau tặng Vĩnh Quốc Thái phu nhân; sinh mẫu Vương thị (王氏) trước được truy tặng làm Vĩnh Gia Quận Thái phu nhân, sau cải phong tặng thành Khang Quốc Thái phu nhân.

Ban đầu Lưu thị vào cung làm Ngự thị (御侍). Do thông minh lanh lợi, có nhan sắc, được sử sách ghi nhận: ["Minh diễm quan hậu đình, đa tài đa nghệ"; 明豔冠後庭,且多才藝], nhanh chóng chiếm được sự sủng ái của Tống Triết Tông. Bà cũng rất được lòng sinh mẫu của Tống Triết Tông là Chu Hoàng thái phi. Năm Thiệu Thánh nguyên niên (1094) được tấn phong làm Bình Xương quận quân (平昌郡君). Năm thứ 2 (1095), tháng 5 tấn phong Mỹ nhân, sang tháng 10 lại phong Tiệp dư. Đắc sủng không lâu, Lưu Tiệp dư sinh được Hoàng nữ thứ 3 của Triết Tông là Tần quốc Khang Ý Trưởng công chúa. Tuy là con gái nhưng vì mẹ được sủng nên công chúa cũng được Triết Tông hết mực yêu quý.

Trước khi sủng ái Lưu Tiệp dư, Triết Tông đã nghe lời Tuyên Nhân Thái hoàng thái hậu, lập cháu gái của Thái úy Mạnh Nguyên là Mạnh thị làm Hoàng hậu. Lưu Tiệp dư cậy sủng nên kiêu căng ngạo mạn, xem thường Mạnh hoàng hậu.

Hãm hại Hoàng hậu Chiêu Hoài Hoàng Hậu

Năm Thiệu Thánh thứ 3 (1096), theo lệ thì Hoàng hậu và các phi tần đến tế ở Cảnh Linh cung, lễ xong thì Hoàng hậu và các phi tần được ngồi. Lưu Tiệp dư không thèm để ý, một mình bỏ đi xem hoa, ai cũng lấy làm bất bình. Đến mùa đông cùng năm, Mạnh hậu dẫn các phi tần đến Long Hựu cung yết kiến Khâm Thánh Thái hậu Hướng thị. Mạnh hoàng hậu theo lệ được ngồi ở ghế trên, các phi tần phải ngồi ở hai bên. Lưu tiệp dư không ngồi, mặt biến sắc; người hầu lấy ghế của Tiệp dư đặt ngang chỗ Mạnh hậu, Tiệp dư mới chịu ngồi. Lưu thái hậu vào cung, phi tần đứng dậy thỉnh an, Tiệp dư toan ngồi thì chiếc ghế bị dẹp mất, khiến bà ngã sóng xoài; sau đó về khóc lóc với Triết Tông. Lưu Tiệp dư dần có hiềm khích với Mạnh hậu, tìm cách lật đổ, bèn cùng Nội thị Hác Tùy (郝隨) liên lạc với Chương Đôn, Thái Kinh bên ngoài.

Mùa thu năm ấy, con gái Mạnh Hoàng hậu là Phúc Khánh công chúa bị bệnh; chị gái bà thường ra vào cung cấm, biết chuyện đó liền đi xin một lá bùa trừ tà cho công chúa và mời đạo sĩ vào cung làm phép. Mạnh hậu biết chuyện, sợ mang vạ nên nói lại với Triết Tông. Hoàng đế ban đầu cho là chuyện thường tình của con người, không trách tội gì, Mạnh hậu bèn đốt lá bùa trước mặt Triết Tông. Tuy nhiên, tin tức này đã lan truyền trong cung, lời dị nghị nổi lên. Không bao lâu sau, Phúc Khánh công chúa qua đời, lại có người của Lưu Tiệp dư đến tố cáo mẹ nuôi của bà là Thính Tuyên phu nhân Yến thị cầu khấn trong Tam Mạo am, xin cho Mạnh hậu sớm sinh được Hoàng tử. Lưu tiệp dư tung tin trong cung rằng Mạnh hậu dùng bùa chú, tà thuật với ý đồ xấu. Một hôm, Nội thị Hác Tùy lại đến tố cáo Mạnh hậu làm phép trong am, Triết Tông sai Nhập nội áp ban Lương Tùng Chánh (梁從政) và Quản đương ngự dược viện Tô Khuê (蘇珪) đến bắt hoạn quan, cung nữ hơn 30 người, giao cho bọn Thị ngự sử Đổng Đôn Dật (董敦逸) tra hỏi, nhưng không ai chịu khai gian. Đôn Dật bị Chương Đôn (章惇) uy hiếp, phải làm một bản khẩu cung giả trình lên. Tháng 9 năm ấy, ngày Ất Mão, Tống Triết Tông hạ chiếu phế bỏ Mạnh hậu, đày ra Diêu Hoa cung (瑤華宮), hiệu Hoa Dương giáo chủ (華陽教主), Ngọc Thanh Diệu Tĩnh tiên sinh (玉清妙靜仙師), pháp danh Xung Chân (沖真).

Sách lập Hoàng hậu Chiêu Hoài Hoàng Hậu

Năm Thiệu Thánh thứ 4 (1097), sau khi sinh hạ Dương Quốc công chúa, Lưu Tiệp dư được thăng lên Hiền phi (賢妃). Năm Nguyên Phù năm thứ 2 (1099), ngày 8 tháng 8, Lưu Hiền phi hạ sinh Hoàng tử Triệu Mậu (趙茂), Tống Triết Tông đại hỉ.

Tháng 9, trăm quan dâng sớ chúc mừng, đề nghị Hoàng đế lập Lưu Hiền phi làm Kế hậu, Triết Tông đồng ý. Ngày Đinh Mùi tháng ấy (8), Triết Tông hạ chiếu nghị lập Lưu Hiền phi làm Hoàng hậu. Về việc này, quan chánh ngôn Trâu Hạo (鄒浩) dâng sớ nói Lưu Hiền phi hại Mạnh hậu đến nỗi bị phế, thì không nên cho chính vị cung trung. Sớ viết:

Đại ý của Trâu Hạo dẫn lại việc Quách hoàng hậu của Tống Nhân Tông bị phế, là do cùng Thượng Mỹ nhân tranh chấp, cả Hậu và Mỹ nhân sau đó đều bị tội. Mạnh hậu không tội, tức Hiền phi có tội, đáng phế không hết, nay lại được lập Hậu. Bên cạnh đó, các triều đều tuyển nữ nhi nhà gia thế để lập Hậu, hiếm khi tấn phong phi tần làm chính thê, nếu lập Hiền phi làm Hậu tắc sẽ tổn hại nghi chế. Tuy nhiên, Tống Triết Tông đem việc Chương Hiến Minh Túc Hoàng hậu trước kia để bác bỏ, cho rằng Trâu Hạo lời lẽ ngông cuồng quá quắc. Trâu Hạo sau đó bị bọn Chương Đôn vu tội rồi bị đuổi khỏi triều đình. Ngày Bính Dần tháng ấy (27), Triết Tông ngự Văn Đức điện, sách lập Lưu Hiền phi làm Hoàng hậu, chiếu như lệ cũ của Mạnh hậu.

Trước đó, vào ngày Kỷ Mùi (20), 7 ngày trước khi lễ sách lập Hoàng hậu diễn ra, Hoàng tử Triệu Mậu qua đời khi chỉ mới hơn một tháng tuổi. Rồi sau lễ sách lập hai ngày (29), con gái của Lưu Hoàng hậu là Dương Quốc công chúa cũng chết yểu. Lưu Hoàng hậu khóc than thương tâm trong cùng 1 tháng mất cả 2 đứa con, Tống Triết Tông bi thương nên sinh bệnh.

Thời kỳ góa phụ Chiêu Hoài Hoàng Hậu

Năm Nguyên Phù thứ 3 (1100), mùa xuân, ngày Kỷ Mão, Tống Triết Tông đột ngột băng hà khi chỉ vừa 25 tuổi. Tình thế đó khiến Hướng thái hậu chủ trì đại cuộc, lập Đoan vương Triệu Cát làm Tân đế, tức Tống Huy Tông. Ngày Tân Tị, Lưu hậu với thân phận Hoàng tẩu nên không tôn Hoàng thái hậu mà được phong Nguyên Phù Hoàng hậu (元符皇后).

Bấy giờ, Hướng thái hậu thông qua quan Thượng thư Tả bộc xạ Hàn Trung Ngạn (韓忠彥), dâng sớ tâu rằng Phế hậu Mạnh thị vô tội, nên phục hồi địa vị. Tống Huy Tông cho đón Phế hậu về cung, phục vị Hoàng hậu, phong làm Nguyên Hựu Hoàng hậu (元祐皇后). Việc này khiến Nguyên Phù Hoàng hậu vô cùng căm phẫn.

Năm sau (1101), mùa xuân, Hướng thái hậu qua đời, phe Tân pháp lại được dịp nổi lên, trừ bỏ phe Thủ cựu. Nguyên Phù Hoàng hậu căm ghét việc Mạnh hậu phục vị nên giật dây Thái Kinh dâng tấu lên Tống Huy Tông, nói Nguyên Hựu Hoàng hậu không đáng phục vị, Huy Tông bất đắc dĩ phải đưa Nguyên Hựu Hoàng hậu trở lại Diêu Hoa cung. Nguyên Phù Hoàng hậu còn căm ghét Trâu Hạo chuyện can giáng việc lập Hậu khi trước, bèn ngầm ám thị Thái Kinh kiếm một bản sớ trước kia của Hạo tố cáo: "Lưu hậu đoạt con của Trác thị. Giết mẹ đoạt con, dối người nhưng không dối được trời" và bảo Trâu Hạo là kẻ điên cuồng. Tống Huy Tông nổi giận, cho rằng Trâu Hạo phỉ báng Tiên đế và Nguyên Phù Hoàng hậu, bèn đày Trâu Hạo ra an trí ở Vĩnh Châu.

Năm Sùng Ninh thứ 2 (1103), tháng 2, Tống Huy Tông tôn Nguyên Phù Hoàng hậu làm Thái hậu, do trú ở Sùng Ân cung nên cũng gọi thành Sùng Ân Thái hậu (崇恩太后). Danh xưng [Thái hậu] của bà không phải phong hiệu [Hoàng thái hậu] - sinh mẫu hay đích mẫu của Hoàng đế, vì bà chỉ là hoàng tẩu của tiên đế đời trước. Lưu thái hậu từ khi đó sinh kiêu ngạo quá độ, muốn can dự cả việc bên ngoài, tư thông với nhiều người. Khi Tống Huy Tông bị bệnh, mưu đồ can dự chính sự dã tâm. Quần thần bất mãn ngày càng nhiều, có người bí mật tâu lên Tống Huy Tông khiến Hoàng đế không vui.

Năm Chính Hòa thứ 3 (1113), tháng 2, Tống Huy Tông bàn định quần thần, chuẩn bị nghị phế. Ngày Tân Mão (9), Sùng Ân Thái hậu uất ức treo cổ tự tử, khi 35 tuổi. Tháng 4, sách thụy là Chiêu Hoài Hoàng hậu (昭懷皇后), sang tháng 5 ngày Bính Ngọ (27) thì được táng vào Vĩnh Thái lăng (永泰陵) và sang tháng 6 thì thăng phụ thần chủ lên Thái Miếu bên cạnh thần vị của Tống Triết Tông.

Hậu duệ Chiêu Hoài Hoàng Hậu

Lưu Hoàng hậu hạ sinh cho Tống Triết Tông 1 Hoàng tử và 2 Hoàng nữ:

  1. Tần Quốc Khang Ý Trưởng công chúa [秦國康懿長公主; 11 tháng 6, 1096 - 30 tháng 8, 1164], con gái thứ 3 của Tống Triết Tông.
    Sinh vào năm Thiệu Thánh thứ 3, tháng 6. Năm Thiệu Thánh thứ 4 (1097), phong làm Ý Khang công chúa (懿康公主), từ nhỏ rất được Đế-Hậu thương yêu chiều chuộng. Tống Huy Tông tức vị, cải thành Gia Quốc công chúa (嘉國公主) rồi Khánh Quốc công chúa (慶國公主). Năm Chính Hòa thứ 2 (1112), cải thành Hàn Quốc công chúa (韓國公主), hạ giá lấy Phan Chánh Phu (潘正夫), hậu duệ dòng dõi Khai quốc công thần Phan Mỹ. Năm sau, quy chế mới định ra, công chúa được cải phong Thục Thuận Đế cơ (淑慎帝姬). Công chúa hạ giá Phan gia, giữ đạo tiết nghĩa, với phu quân phi thường ân ái, được gọi là ["Hoàng thất hiền cơ"; 皇室贤姬]. Thời Sự kiện Tĩnh Khang, công chúa lưu tại Biện Kinh cùng Hiền Đức Ý Hành Đại Trưởng công chúa - con gái của Tống Nhân Tông. Sau Nam Tống tái lập, phế bỏ Đế cơ chế độ, cải phong Ngô Quốc Trưởng công chúa (吳國長公主), tạm cư Vụ Châu. Tống Hiếu Tông tức vị, tiến phong Tần Quốc Đại Trưởng công chúa (秦國大長公主).
  2. Dương Quốc công chúa [揚國公主; 1097 - 1099], con gái thứ 4 của Tống Triết Tông, chết non.
    Sinh năm Thiệu Thánh thứ 4, sơ phong Ý Ninh công chúa (懿寧公主). Năm Nguyên Phù thứ 2, ngày 29 tháng 9 (âm lịch), công chúa qua đời, truy thuỵ Dương Quốc công chúa. Tống Huy Tông tức vị, cải thành Thuần Mĩ Đế cơ (純美帝姬).
  3. Triệu Mậu [趙茂; 26 tháng 8, 1099 - 6 tháng 10, 1099], con trai duy nhất của Tống Triết Tông.
    Sinh ngày 8 tháng 8 năm Nguyên Phù năm thứ 2. Qua đời được truy thụy là Việt Xung Hiến vương (越冲献王). Tống Huy Tông tức vị, cải phong làm Hoàng thái tử, thụy là Hiến Mẫn Thái tử (献愍太子).

Xem thêm

Tham khảo

Tags:

Tiểu sử Chiêu Hoài Hoàng HậuHãm hại Hoàng hậu Chiêu Hoài Hoàng HậuSách lập Hoàng hậu Chiêu Hoài Hoàng HậuThời kỳ góa phụ Chiêu Hoài Hoàng HậuHậu duệ Chiêu Hoài Hoàng HậuChiêu Hoài Hoàng Hậu10791113Chữ HánHoàng hậuTống Triết Tông

🔥 Trending searches on Wiki Tiếng Việt:

Càn LongNgô Đình DiệmQuân khu 4, Quân đội nhân dân Việt NamDương vật ngườiHành chính Việt Nam thời NguyễnĐào Duy TùngCristiano RonaldoBùi Văn CườngNguyễn Xuân ThắngNarutoĐà NẵngQuân khu 9, Quân đội nhân dân Việt NamPhilippinesGia Cát LượngTháp RùaNguyễn Tấn DũngThái BìnhHàn TínLiên Hợp QuốcNhật thựcKim Bình MaiNguyễn Ngọc KýLionel MessiViệt NamThảm sát Mỹ LaiDanh sách tỷ phú thế giớiTrương Tấn SangHổLâm ĐồngThái NguyênHuếTứ bất tửLê Đức ThọLụtV (ca sĩ)Giải vô địch bóng đá U-23 châu Á 2018Thuận TrịĐảng Cộng sản Việt NamVăn phòng Quốc hội (Việt Nam)Học viện Kỹ thuật Quân sựKênh đào Phù Nam TechoĐịa lý Việt NamPhan Đình GiótThừa Thiên HuếLàoĐiện BiênChủ nghĩa cộng sảnHọc thuyết DarwinNhà Tây SơnChiến tranh cục bộ (Chiến tranh Việt Nam)Mười hai vị thần trên đỉnh OlympusSố nguyên tốKhang HiNhà TrầnTài nguyên thiên nhiênThích Nhất HạnhNew ZealandGMMTVHôn lễ của emCố đô HuếHiệu ứng nhà kínhTrần Sỹ ThanhSex and the CityBắc KinhAn GiangĐài Truyền hình Kỹ thuật số VTCCách mạng Công nghiệp lần thứ tưPhạm Nhật VượngNhà thờ chính tòa Đức Bà Sài GònChu vi hình trònNewJeansLãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳAnh hùng dân tộc Việt NamĐại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí MinhNgười Hoa (Việt Nam)Mai vàngThủ dâmHán Cao Tổ🡆 More