Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

55 DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TRUNG QUỐC

Trung Quốc một quốc gia có nhiều dân tộc, ngoài dân tộc Hán có số nhân khẩu đông nhất, hiện nay còn có 55 dân tộc thiểu số tập trung chủ yếu tại khu vực Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc, Nam và Tây Nam. Nhân khẩu của các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 6% tổng số nhân khẩu toàn quốc, tức là khoảng 60.000.000 người.

Số lượng nhân khẩu của các dân tộc thiểu số hơn kém nhau rất nhiều. Các dân tộc có nhân khẩu trên 1.000.000 là Mông Cổ, Hồi, Tạng, Duy Ngô Nhĩ, Miêu, Di, Choang, Bố Y, Triều Tiên, Mãn, Đồng, Giao, Bạch, tất cả 13 dân tộc, trong các dân tộc thiểu số, dân tộc Choang có nhân khẩu nhiều nhất khoảng 13.000.000.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

Các dân tộc thiểu số của Trung Quốc được phân chia theo số lượng nhân khẩu như sau:

+15 dân tộc có nhân khẩu từ 10 vạn đến 1.000.000 là Thổ Gia, Cadắc, Ha Ni, Thái, Lê, Lisu, Va, Xa, Cao Sơn, Lahu, Thủy, Đông Hương, Nạp Tây, Thổ, Lôba.

+ 18 dân tộc có nhân khẩu từ 1 vạn tới 10 vạn là: Cancát, Cảnh Phả, Tahua, Mô Lao, Khương, Burăng, Sanra, Mao Nan, Cơlao, Siba, A Xương, Vu Mi, Tátgích, Nộ, Ơuônkhơ, Băng Long, Môna, Chi Nô.

+ Các dân tộc có nhân khẩu dưới một vạn là: Udơbếch, Bảo An, Uycu, Kinh, Tácta, Độc Long, Ơluânxuân, Hôchê, Nga, tất cả 9 dân tộc. Trong số đó các dân tộc Hôchê và Nga không có tới một ngàn người.

Bên cạnh đó, ở và Tây Tạng vẫn còn có người Xoá Mãn và người Đăng. Cho đến nay vẫn còn chưa xác minh được thành phần dân tộc.

Tất cả 55 dân tộc thiểu số đều là thành viên trong đại gia đình dân tộc Trung Hoa, cùng sử dụng sức lao động cần cù, tinh thần dũng cảm và trí tuệ của mình, phát triển nền kinh tế của Tổ quốc, tạo nên nền văn hóa lịch sử chung của Trung Hoa.

SỰ PHÂN BỐ VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TRUNG QUỐC

Như đã giới thiệu trên đây, Trung Quốc có 55 dân tộc thiểu số cùng sinh sống, thế nhưng vì giới hạn của bài viết nên https://travel.duhoctrungquoc.vn/ chỉ xin phép đề cập đến 12 dân tộc.

Dân tộc Choang

Choang là dân tộc có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, phân bố chủ yếu ở khu tự trị dân tộc Choang, ; châu tự trị dân tộc Choang, Miêu Văn Sơn, Vân Nam, huyện tự trị dân tộc Choang, Dao Liên Sơn, và rải rác ở các tỉnh Quý Châu, ,

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

Theo phát hiện của các nhà khảo cổ học, cách đây mấy chục vạn năm đến hơn một vạn năm, trên khắp vùng Quảng Tây đã có những hoạt động của người cổ đại. Lưu vực thung lũng sông Hữu nơi dân tộc Choang sinh sống đã phát hiện nhiều di chỉ thời đại đồ đá cũ cách đây 6, 7 vạn năm của người cổ đại, trong đó có không ít di vật văn hóa. Đặc trưng thể chất của người cổ đại là đầu to, lưỡng quyền nhô cao, xương mũi thấp, sống mũi hơi lõm, hàm răng trên hình lưỡi cày… Những đặc trưng này thuộc về chủng người Mongoloit, giống với đặc trưng thể chất người Choang hiện nay.

Tổ tiên của người Choang đã sống ở Quảng Tây trải qua các triều đại Thương, Chu, thời kỳ Xuân Thu, Chiến Quốc, các triều đại Tần, Hán, Đường, Tống, với nhiều tên gọi khác nhau như Tây Âu, Lạc Việt, Ô Hử, Lý, Liêu, Lương, Thổ… Thời kỳ này, ảnh hưởng của người Hán còn rất hạn chế. Thời Nam Tống (1127 – 1279), mới bắt đầu có tên gọi Choang. Về sau, Choang dần trở thành danh xưng dân tộc thống nhất, cùng với những cư dân người Hán từ Trung nguyên đến sinh sống ở Quảng Tây ngày một nhiều.

Dân tộc Mãn

Dân tộc Mãn chủ yếu phân bố tại ba tỉnh Đông Bắc Trung Quốc, cư trú đông nhất tại tỉnh . Trong 55 dân tộc thiểu số Trung Quốc, số dân của dân tộc Mãn đứng thứ hai chỉ sau dân tộc Choang. Dân tộc Mãn có lịch sử lâu đời, có thể truy nguồn đến người Túc Thận cách đây hơn hai nghìn năm, Mạt Hạt Hắc Thủy là tổ tiên trực hệ của dân tộc Mãn, sau đó phát triển thành Nữ Chân. Sau cách mạng Tân Hợi năm 1911, dân tộc Mãn Châu đổi tên là dân tộc Mãn.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

 

Ngày tết truyền thống chủ yếu có Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu, Mồng 2-2, Tết Đoan Ngọ và Tết Trung thu. Trong thời gian ngày tết thường tổ chức hoạt động thể thao truyền thống như “Bóng ngọc trai”, nhảy ngựa, nhảy lạc đà và trượt băng… Tết Ban Kim là ngày “Chào mừng dân tộc” của dân tộc Mãn. Tháng 10 năm 1989, chính thức quy định ngày 3/12 hàng năm là “Tết Ban kim”.

Dân tộc Miêu

Theo thống kê dân số vào năm 2010, Trung Quốc có hơn 9.426.000 người, trong đó người Miêu là nhóm dân tộc thiểu số đông dân thứ 5 tại Trung Quốc và nằm trong danh sách 55 dân tộc thiểu số chính thức được công nhận bởi Chính phủ Trung Quốc.

Từ lâu, người Miêu đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu và được xếp chung vào với người Dao, Xá do có quan hệ nguồn gốc, thuộc nhóm Miêu – Dao, là tộc người có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Dân tộc Miêu ở Trung Quốc cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh như , Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, , (thuộc các vùng Hoa Nam và Tây Nam Trung Quốc).

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

Người Miêu ở Trung Quốc bao gồm 5 tộc người khác nhau là người Hmong, Hmub, Xong và A-Hmao và được chia thành 2 nhóm là người Miêu Thuần và Dã Miêu. Người Miêu Thuần là những người Miêu đã định cư ở vùng đồng bằng và sống hòa nhập với cuộc sống hiện đại. Trong khi đó, nhóm người Dã Miêu lại sinh sống ở những vùng núi non hiểm trở, duy trì những nét văn hóa và lối sống vô cùng khác biệt với người Hán hoặc những người dân tộc thiểu số khác sinh sống ở các thành thị trung tâm.

Dân tộc La-hu

Dân tộc La-hu chủ yếu phân bố tại các huyện Lan Thương, Mạnh Liên, Song Giang, Mạnh Hải, Tây Minh… ở miền nam tỉnh Vân Nam. Cụm từ “La-hu” là một từ vựng trong ngôn ngữ dân tộc, “La” có nghĩa là con hổ, “hu” có nghĩa là nướng thịt cho thơm. Do vậy, dân tộc La-hu trong lịch sử được gọi là “dân tộc săn hổ”.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

Ngày tết truyền thống của dân tộc La-hu có Tết Nguyên đán La-hu, Tết Bó đuốc, Tết Mặt trăng và Tết Thưởng thức gạo mới… Trong đó ngày tết long trọng nhất là Tết Nguyên đán La-hu. Theo truyền thuyết, anh em dân tộc La-hu sinh ra từ quả hồ lô. Vào mồng một Tết, già trẻ gái trai dân tộc La-hu đều dùng quả hồ lô đựng nước để rửa tay, ngụ ý rửa đi sự nghèo túng của năm cũ, đón chào mùa màng bội thu trong năm mới.

Dân tộc Lê

Dân tộc Lê cư trú tại thị trấn Thông Thập đảo Hải Nam, theo khảo chứng, dân tộc Lê bắt nguồn từ một nhánh tộc của dân tộc “Bách Việt” cổ. Cách đây 4.000 – 5.000 năm, tổ tiên dân tộc Lê đã sinh con đẻ cái trên đảo Hải Nam, trở thành cư dân sớm nhất trên đảo.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

 

Ngày tết truyền thống của dân tộc Lê có Tết Nguyên đán và “Mồng 3-3”. Đa số ngày lễ tết của dân tộc Lê giống với dân tộc Hán, chẳng hạn như Tết Nguyên đán, phong tục đón tết cơ bản như dân tộc Hán. “Mồng 3-3”, ngày tết âm lịch hàng năm độc đáo của dân tộc Lê bắt nguồn từ một truyền thuyết về sinh sôi con cháu của tổ tiên dân tộc Lê.

Dân tộc Khương

Dân tộc Khương hiện nay chủ yếu tập trung sinh sống tại Mậu Vấn phía Tây tỉnh Xứ Xuyên, dân tộc Khương tự xưng là “Ơ-ma”, có nghĩa là “người bản xứ”. Cách đây 3000 năm trước, trong văn giáp cốt đời nhà Ân đã có ghi chép về người Khương, họ chủ yếu sinh sống tại miền Tây-Bắc và vùng Trung Nguyên của Trung Quốc. Miền núi dân tộc Khương sinh sống có nhiều động vật hoang dã quý hiếm như gấu mèo, khỉ lông vàng.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

 

Mồng 1 tháng 10 âm lịch là Mồng một Tết của dân tộc Khương. Yến tiệc Mồng một Tết lại gọi là “Rượu thu hoạch”. Mồng một Tết người dân cả làng đến “Rừng cây thần” lễ tạ, đốt hương trầm bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên và các vị thần. Hàng năm cứ đến dịp lễ tết, đám cưới, đám tang, thờ cúng, tụ tập, mời khách hoặc lao động đổi công, ngoài chuẩn bị các món ăn thịnh soạn ra, còn chuẩn bị rượu ngon.

Dân tộc Sa-la

Dân tộc Sa-la chủ yếu tập trung sinh sống tại khu vực Tuần Hoá tỉnh Thanh Hải ở ven bờ sông Hoàng Hà. Dân tộc Sa-la có ngôn ngữ của mình, nhưng không có chữ viết, sử dụng chữ Hán.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

Chàng trai dân tộc Sa-la phần lớn sống bằng nghề lên núi đốn củi, xuống sông đóng bè. Ngoài ra, nuôi ong mật là nghề phụ người Sa-la yêu thích nhất, chăm bón cây cảnh cũng là sở trường của họ.

Dân tộc Sa-la chủ yếu có tháng lễ Ra-ma-đan, lễ hội La Eid al-Adha… Ngày tết truyền thống quan trọng nhất là lễ hội La Eid al-Adha, cứ đến ngày tết, dân tộc Sa-la đều mở tiệc chiêu đãi khách, luộc thịt cừu, ninh thịt gà, làm bánh bao nhân đường, rán bánh ga-tô,… và các món ăn trộn.

Dân tộc Xa

Dân tộc Xa tự xưng là “Sơn Ha”, có nghĩa là khách sống trên núi, tương truyền quê quán của dân tộc Xa là ở Triều Châu Quảng Đông. Chủ yếu phân bố tại Phúc An của Phúc Kiến, Cảnh Ninh của Chiết Giang và các tỉnh Quảng Đông, , , đa số sống chung với dân tộc Hán.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

 

Dân tộc Xa rất coi trọng ngày tết truyền thống, chú trọng sùng bái tổ tiên, ngày Rằm tháng 2, tháng 7 và tháng 8 hàng năm là ngày thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng quỷ thần. “Mồng 3-3” là ngày tết truyền thống của dân tộc Xa, diễn ra vào mồng 3-3 âm lịch hàng năm, lại gọi là “Tết Ô Phạn”. Người Xa rất coi trọng ngày lễ tết truyền thống, ăn món gì vào mỗi dịp tết đều có tập tục truyền thống riêng.

Dân tộc Kinh

Dân tộc Kinh Trung Quốc chủ yếu tập trung cư trú tại ba đảo nhỏ Vạn Vĩ, U Đầu, Sơn Tâm xưa nay vẫn được gọi là “Ba đảo dân tộc Kinh” của xã Giang Bình, Phòng Thành Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

 

Dân tộc Kinh chủ yếu tín ngưỡng Đạo giáo, một số ít tín ngưỡng Thiên Chúa giáo. Ngày tết truyền thống có Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu và Hội hát đình. Trong đó Hội hát đình long trọng nhất. Hội hát đình phần lớn được tổ chức tại đình làng, đình làng là kiến trúc mang phong cách dân tộc độc đáo.

Dân tộc Cảnh Pha

Dân tộc Cảnh Pha chủ yếu tập trung cư trú tại miền núi các huyện thuộc Châu tự trị dân tộc Thái, dân tộc Cảnh Pha Đức Hồng tỉnh Vân Nam.

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

 

Mu Nao Zong Ge là ngày tết truyền thống của nhân dân dân tộc Cảnh Pha với ý nghĩa bài trừ cái ác hướng tới cái thiện, cầu mong tốt lành hạnh phúc, thường diễn ra sau ngày rằm tháng Giêng âm lịch, trong khoảng 2-3 ngày. Trong truyền thuyết của dân tộc Cảnh Pha, Mu Nao Zong Ge là một lễ hội ca múa cỡ lớn mà thần mặt Trời trên thiên cung triệu tập vạn vật dưới trần gian tham gia, sau đó được tê giác truyền đến trần gian và trở thành ngày tết trọng thể nhất của dân tộc Cảnh Pha.

Dân tộc Kan-kát

“Kan-kát” là tên gọi dân tộc, có nhiều ý nghĩa như: “40 bộ lạc”, “40 cô gái”, “người chăn nuôi miền núi” hoặc “người trên thảo nguyên”. Dân tộc Kan-kát tập trung cư trú tại Châu tự trị Kan-kát Ke-zi-le miền Nam .

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

 

Ngày tết lớn nhất của dân tộc Kan-kát là lễ hội Nuo-ruo-zi, theo lịch của dân tộc Kan-kát, trăng non cứ xuất hiện một lần được coi là một tháng, 12 tháng là một năm. Bà con dân tộc Kan-kát đón lễ Nuo-ruo-zi vào tháng đầu tiên hàng năm, tương đương Tết Nguyên đán của dân tộc Hán.

Dân tộc Lô-ba

Một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc

Dân tộc Lô-ba chủ yếu phân bố tại phía Đông Nam Tây Tạng, với hơn 2300 người, là dân tộc với số dân ít nhất của Trung Quốc. Lô-ba, là tên gọi mà dân tộc Tạng đặt cho họ, có nghĩa là người miền nam. Trước giải phóng vẫn tồn tại chế độ nô lệ gia đình. Tháng 8 năm 1965 được chính thức xác định là một dân tộc riêng. Dân tộc Lô-ba cư trú tại vùng Mạc Thoát, Mễ Lâm vẫn sử dụng lịch Tạng, tất cả ngày tết và hoạt động tế tự không khác gì mấy với dân tộc Tạng.

Còn rất nhiều điều thú vị về các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc mà với giới hạn ở bài viết này không thể trình bày hết được. Du khách hãy đặt cho mình một tour du lịch Trung Quốc để tự mình khám phá nhiều hơn nhé! Chúc các du khách có một chuyến đi với nhiều trải nghiệm thú vị!

Thông tin bài viết được thu thập và tổng hợp từ Nguồn Internet chỉ mang tính chất tham khảo.

Bài viết này được cập nhật lần cuối (Last updated): 17-03-2020 21:10:21

Danh mục đăng tin:Ẩm thực Trung Hoa, Văn hoá - Con người,
Top